Bài viết Bai 2. Nguyen Cuu Viet -OK thuộc chủ
đề về Hỏi & Đáp thời gian
này đang được rất nhiều bạn quan tâm đúng không nào !! Hôm nay, Hãy
cùng HLink tìm hiểu Bai 2. Nguyen
Cuu Viet -OK trong bài viết hôm nay nhé ! Các bạn đang xem bài :
“Bai 2. Nguyen Cuu Viet -OK”
Đánh giá về Bai 2. Nguyen Cuu Viet -OK
Xem nhanh
#quanchulaphien #timhieu
Có thể bạn thích xem:
Cần Cù Bù Thông Minh Bí Quyết Thành Công Bỏ Túi
https://www.youtube.com/watch?v=HoZLm1LoWQUu0026t=123s
- Cầu Cơ Là Gì | Lý Giải Về Cầu Cơ Theo Góc Độ Khoa Học
https://www.youtube.com/watch?v=UWMDp...
- Hiễu Rõ Cấp Bậc Quân Hàm Quân Đội Nhân Dân Việt Nam
https://www.youtube.com/watch?v=uYmdX...
- Những Sự Thật Về Thuốc Giảm Cân Bạn Nên Biết
https://www.youtube.com/watch?v=6qYBF...
Tạp chí Khoa học đại họcQGHN, Luật học 26 (2010)
214-228 214 Khái niệm tập quyền, quyền và phân quyền
Nguyễn Cửu Việt *
Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh,
Số 2-4 Nguyễn Tất Thành, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
Nhận ngày 15 tháng 10 năm 2010
Summary. Bài viết về mối quan hệ giữa Trung ương và địa phương
trong công việc tổ chức thực hiện
quyền lực Nhà nước. Các điểm đặc biệt trên các phân quyền định thức
có hiệu lực giữa Trung
tâm bù và địa phương, bài viết đưa ra các quyền khái niệm, quyền và
phân quyền. This is
các khái niệm có tính toán học và thực thi cao cấp có khả năng vận
dụng trong quá trình
phân cấp Lý nhà nước ở Việt Nam Hiện tại.
1. Vấn đề ý nghĩa *
If vấn đề nhà nước là trung tâm của cuộc đấu
tranh chính trị, vấn đề tổ chức quyền lực nhà
nước là trung tâm của các vấn đề nhà nước. Có
hai vấn đề tổ chức thực hiện các quyền của nhà
nước: tổ chức thực hiện các quyền của nhà nước ở
trung ương và tổ chức thực hiện các quyền của nhà
nước theo thổ thổ dân. Tổ chức thực hiện quyền
lực nhà nước theo lãnh thổ, tức là tìm lời giải
cho câu hỏi làm thế nào để giải quyết mối quan hệ
system between center and address, in that
statement question was set is “the middle to value” (1)
hay “chia
to value ”, and“ file center ”as any world,“ share ”as
thế nào. This topic not simple, has and being
luôn làm đau đầu mọi nhà quân chủ cho đến các
nhà chính trị thời đại dân chủ, cũng như mọi người
vấn đề liên quan đến tổ chức quyền lực nhà
water are not simple.
Lời giải đáp bên ngoài cho câu hỏi này nhìn
from the structure of the house water, is
______
*
ĐT: 84-4-37547512.
E-mail: [email protected]
(1)
Các chữ in đậm, nghiêng hay để trong ngoặc “…”
của bài viết này là do tác giả ấn mạnh. cách tổ chức thành nhà nước
đơn nhất, kết nối
bang, liên minh, hợp tác,…
đặc điểm từng quốc gia. Nhưng lời giải đáp bên trong
phức tạp hơn. By cùng một
cấu trúc cấu hình của nhà nước như đơn nhất hay liên bang lại
có
could be the main form for the root quân or
cộng hòa với thường xuyên công cụ biến thể mà các
the other format variable, xa nhau về chủ nhân tính toán.
Nhà nước quân đội không phải lúc nào
cũng mất dân chủ như các nhà nước quân chủ
lập hiện đại như Anh, Thụy Điển, Nhật
Bản… bên cạnh đó, nhà nước cộng hòa không
must at any also have the manager as the country of
cộng hòa nẹt dân chủ (chỉ dân chủ với số ít
chủ núp), xúm xít nước cộng hòa… Vì vậy,
Nhận xét về chủ nhân tính toán trong cách cai trị của các
quốc gia thì quan trọng nhất yếu tố là
chế độ hiểu chính trị với nghĩa là cách cai trị
dân chủ hay phản hồi dân chủ. Phương pháp cai trị
This could not be than rang the most in the Quan điểm “
tập trung to value ”hay“ share to value ”xem xét vấn đề tổ chức
thực hiện quyền lực nhà nước theo lãnh thổ.
But the same same an
thống trị phương pháp master in the current period, the master
level
in each other country as well, as current
nay hầu hết các quốc gia đều đặn đi theo con đường
N.C. Việt / Tạp chí Khoa học đại họcQGHN, Luật học 26 (2010)
214-228 215 cai trị dân chủ, nhưng không thể nói mức độ
dân chủ trong các quốc gia đều đặn giống nhéu. Mặt
khác, ngay trong mỗi quốc gia ở
các giai đoạn khác nhéu của cách quản lý dân chủ, mức
chủ cấp độ của cách cai trị dân chủ chung đó
cũng không giống nhau.
Lời giải đáp cụ thể mang tính chất học tập cho
this question is in the water, before out of
là sản phẩm nước, khoa học hành chính
luật đưa ra ba nguyên tắc chủ yếu làm việc cho tổ chức
chức năng và vận hành của quyền chính
địa phương is: quyền tập, quyền và phân quyền. Lý
thuyết về các nguyên tắc đó bắt nguồn từ Pháp.
Show this, the normal apply of the
nguyên tắc và từng nguyên tắc cũng được
hiện bên dưới các định thức khác nhau ở mỗi
nước. The multiformedable could not be specialured in
chính sách phi tập trung quản lý nhà nước
theo thổ địa và đang diễn ra ở trên 80%
in số 116 nước đang phát triển. Trong các
nước xã hội chủ nghĩa (dưới đây: XHCN) cũ
(Liên Xô, Trung quốc, Việt Nam) nguyên tắc tổ
Chức năng quản lý theo lãnh thổ tương đương
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà máy nước nói
Chung được gọi là nguyên tắc dân chủ tập trung,
with the format can be current multiformed, element
chủ qua tổ chức nguyên tắc – kỹ thuật của quản lý
nhà nước như trong báo cáo vẫn gọi. Sau đây
chúng ta sẽ xem xét chi tiết ba nguyên tắc đó.
2. Các quyền
khái niệm 2.1. Khái niệm
Theo tiếng Anh và tiếng Pháp, các quyền là
“Tập trung hóa”. Quyền hạn là tổ chức
nguyên tắc quyền chính thức của nhà nước có nội dung là sự việc
tập trung mọi quyền tác động vào tay các cơ quan
trung ương. This cơ sở nắm trong tay
quyền quyết định mọi vấn đề từ trung ương đến
local. Điều khiển cơ quan trung ương,
kiểm tra mọi hoạt động của chính
các cơ quan quyền địa phương, nên chính
các cơ quan quyền địa phương không có quyền sáng tạo, chỉ
tuân thủ, phục tùng mọi quy định từ cấp trên
được đưa ra. Trong trường hợp áp dụng một hình thức cho các quyền
của nguyên tắc, chỉ có
chính new new permissions have thẩm quyền ban hành
văn bản luật phạm vi, tư cách pháp
nhân, nghĩa là chỉ có chính quyền trung ương
new has a private book, has a theory of power to
kiện tụng.
Fptshop.com.vn chức năng quản lý nhà nước có những điểm ưu tiên
và
hạn chế chủ yếu sau:
Ưu tiên:
– Trung ương
máy hành chính mọi quyền lực trong tay, đại diện và bảo vệ
cho quyền lợi chung của quốc gia, không ảnh
hưởng bởi quyền lợi của địa phương, không có bè
phái, không có mâu thuẫn giữa trung ương và
local;
– Phối hợp vận hành của các
địa chỉ phương ở tầm chiến lược, dung hòa quyền lợi
left Ngược giữa các phương pháp với nhéu;
– Pháp luật và do đó quản lý nhà nước được
thực hiện thống nhất trên khắp cả nước;
– Có đầy đủ phương thuận tiện hoạt động hơn các
địa phương về mặt tài chính, kỹ thuật và nhân lực;
– Thích hợp để bảo vệ quyền lợi tối cao của
quốc gia và tránh các quyền lợi
giữa các phương thức trong các tình huống
đặc biệt (chiến tranh, khủng hoảng …).
Limit:
– Do xa address, nên
các bộ phận is not save to and less than the specification
of each local, does not get a kịp thời
tinh hình, tâm tư nguyện vọng và mong muốn của
địa phương nhân sự, vì thế một số
sách chính of the middle ban hành hoặc không thể thi ở
address or not be a
địa phương ủng hộ;
– Do must management many job, should
cồng kềnh chính hành, thường xuyên
tầng, tầng và bận, quá tải. các bộ phận
chính trung ương không thể theo dõi và giải
quyết định mọi vấn đề của địa phương, làm việc
thiệt hại đến quyền lợi của địa phương và do đó
cả quyền lợi của trung ương;
– Không chủ quản, ít tạo điều kiện để phát
quản lý nhân sự và sáng tạo của
địa phương
N.C. Việt / Tạp chí Khoa học đại họcQGHN, Luật học 26 (2010)
214-228 216 trong công việc phát huy thế mạnh từng địa chỉ
phương thức, địa phương nhân sự không được hoặc
rất ít được tham gia vào công việc quốc gia.
Các quyền là nguyên tắc chủ đạo trong
tổ chức chức năng thực hiện quyền lực nhà nước theo lãnh đạo
thổ của mọi quốc gia từ thưở khai thiên lập địa
when new output the first first water on
left the earth to out of the period of the
nhà nước phong kiến, mặc dù có cả
những hình ảnh thức nhà nước xem ra có dân chủ, như cộng đồng
Nơ chủ hòa hòa Đối với núp bóng tầng và chỉ là
thức định hình chính, tức là hệ thống định thức giữa các
cơ quan nhà nước ở trung ương và
phương thức hình thành họ). Nhà nước tư sản trước khi
terminating kỳ chiến tranh lạnh (những năm
70-80 of the world kỷ 20) cũng vẫn là tập
chế độ quyền. Nhìn chung, trong những năm sau chiến
tranh thế giới thứ hai, tổ chức loại này vẫn
Còn tồn tại ở khắp các nước Tây Âu. Các
nước XHCN cũng duy trì các quyền của file mode, but is
XHCN mode. Các nước đang phát
triển khai hiện nay cũng có những nơi, những lúc tồn tại
at the main permissions on this type.
But to save the idea, the rights file mode has
nhiều cách thức.
Các quyền tập hợp chế độ tuyệt đối tồn tại trong
các
nhà nước quân chủ chuyên chế, cộng hòa phát xít
(của độc quyền chế độ) hay quản lý quân chế độ.
mode các quyền file có phân phối
thông qua
thông tin phân quyền, phân cấp, ủy quyền thường nhật hơn và
to now still at, đặc trưng là
chế độ tồn tại quyền – là một định dạng của các quyền của tập
tin.
Other face, ngay trong các quyền
chế độ cổ xưa, kể cả trong các nhà nước có
chế độ chuyên gia quân sự (biến
dạng phổ biến tuyệt đối quyền) vẫn tồn tại
tự trị định dạng as value mode of the items in Tây Âu,
tự trị chế độ của nông thôn, làng xã ở
phương Đông, trong đó có Việt Nam và tồn tại
to the big time.
2.2. Chính quyền tổ chức mô hình
địa phương theo các quyền
quy tắc Về chung nguyên tắc, chính quyền
phương theo các quyền nguyên tắc mô hình. high to setting and only
direct all activity, but
theo các cách khác nhéu: trực tiếp hoặc gián đoạn
tiếp. This is a old manmoime only because it is export
đầu tiên trong lịch sử và nhất biến phổ trong
lịch sử cổ đại trung đại và vẫn tồn tại đến ngày
this in many water, as all
the water XHCN (XHCN mode).
2.2.1. Tuyệt đối
quyền tập This can be call is the
thức ăn quan nhà
nước cải thiện tối đa trực tiếp bổ nhiệm và
chỉ mọi vận hành ở địa phương, nguyên
thủ quốc gia (hoàng đế, tổng thống) or thủ
bổ nhiệm chính tướng / bãi nhiệm tất cả các
chức năng cao cấp (trưởng, phó cấp và các
chức năng the other high level) of the top base of
các cơ quan trung ương và các quyền
địa phương (thường đến cấp huyện và tương đương, cấp xã,
Doanh nghiệp và tương đương với chế độ thực hiện
tự quản lý). Mọi hoạt động của các quyền
chính phương đều theo mệnh lệnh từ một trung tâm
duy nhất ở trung ương. This is a
file model quyền tuyệt đối.
Đây là quyền chính của hầu hết các
quốc gia cố đại (Nô và phong kiến giai
đoạn nhà nước trung ương tập quyền). Time cận
this model is to hay gặp mặt trong đoạn đất nước
có chiến tranh. Show this model this vẫn
tồn tại at many water as: Cô-oét (có đặc thù là
Quyền thiết lập được phân chia giữa Tiểu
vương và quốc hội), Ả Rập Xê-út, Brunây …
The Speciality of this model is “main
quyền quản lý quân đội ”, đã tồn tại khá thường xuyên biến phố
ở
thường xuyên nước khác nhéu. View from the history angle,
những nhà nước “dân quân sự” –
loại hình nhà nước đầu tiên trong lịch sử loài người vốn
là “quyền quản lý quân đội”: đứng đầu nhà
nước vốn là tù trưởng chỉ huy quân đội.
Toàn bộ các quyền hệ thống từ trung ương tới
địa phương đều là lĩnh vực tướng. This tổ chức
giữ mãi đến sau này, như ở
các nhà triều đại kiến, trong đó có Việt Nam, tuy nhiên sau các
chức năng “quan võ” có sự kết hợp với
các chức năng “Quan văn”. Trong lịch sử cận đại, “chính
quyền quản lý quân đội ”thường tồn tại trong
buổi học giao thời ở những nước mới phóng ra chờ
N.C. Việt / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 26 (2010) 214-228 217
thành lập chính quyền mới. Trong những năm
sau Chiến tranh thế giới lần thứ II, loại tổ chức
this tồn tại ở khắp các châu Âu, hay ở
Nam water ta to the time after 30-4-1975.
Các nước đang phát triển Hiện tại, như ở
châu Phi, cũng có những lúc tồn tại chính quyền
method theo kiểu “quân quản”. At Myanma it
There was being in the time long to the last year
gần đây. Ở Thái Lan, đất nước “sôi động với
the the gioi tinh binh duong ”
quản lý quân đội vẫn tồn tại sau cuộc đảo ngược
chính, trước khi mới phủ Chính được thành lập.
2.2.2. Quyền tập hợp có
phân trách nhiệm The a way to could not a king /
hoàng đế nào có thể tự mình quản lý mọi vấn đề
đề trong một quốc gia, dù nhỏ. Các vị vua
nhiều phải cử lại các quan, lĩnh vực
chung thay mặt mình nghe về dân chúng, giữ yên bờ biển
. Mỗi lần quan lại, tướng lĩnh lúc đó được
cấp chứng chỉ quyền thực hiện lệnh của vua / hoàng đế. Được
sắc phong một chức năng là những
giao tiếp nhất quyền hạn chế, kể cả các quyền định
định to phát sinh của dân cư. But in
file mode các quyền thì các quyền này có khả năng là vua
get go any at any time. Đó là bản chất của nhà
nước chuyên chế, một dạng cổ điển của
chế độ các quyền tập tin có trách nhiệm phân chia.
Các quyền của tập tin chế độ có
trách nhiệm phân chia is done information through
parse format công, cấp, quyền. Theo this model,
nguyên thủ quốc gia (hoàng đế, tổng thống)
or overlay chính tướng chỉ trực tiếp bổ sung
nhiệm vụ / bãi nhiệm của trưởng cấp và phó của các
não đầu cơ quan ở trung ương và của
các cấp chính quyền địa phương, tức là bổ nhiệm /
chỉ bãi nhiệm vụ lãnh đạo cấp dưới trực tiếp
next, and this level is trao quyền bổ nhiệm /
bãi nhiệm vụ cho cấp dưới tiếp theo. Trong vận hành
auto the rights address is
chính quyền trung ương (bao gồm cả cơ quan
cao nhất và cơ quan quản lý não bộ)
phân quyền, phân cấp, ủy quyền thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong những
nhất định và chịu trách nhiệm trong
the range that. Nhiệm vụ của các quyền
address of this model is doing the function management general or
manager on a
nhất định lĩnh vực. Bên cạch thực hiện
quản lý chức năng của nhà nước trung
bù, các bộ phận này thực hiện các chức năng
the method of. This model vẫn đảm bảo
Trung tâm bảo mật và tiện lợi, tuy nhiên nó
xin lỗi công ty phân quyền, phân cấp, quyền hạn phải
rõ ràng buộc, kiểm tra chế độ phải chặt chẽ và
chế độ trách nhiệm hữu hạn, if not
cũng dễ dàng quan liêu tập trung hoặc phân tán, tự động làm
các thuận tiện ích. tuy nhiên, dù hình thành theo cách nào thì
cơ quan các quyền địa phương theo
mô hình các quyền file có phân phối trách nhiệm
dưới sự chỉ đạo trực tiếp, chịu sự kiểm tra chặt chẽ
Đơn phương, hệ thống nhất từ một não đầu quan ở trung
tâm bù là thủ quốc gia hoặc phủ chính. Cả
water is an a system
nhà điều hành chính nước
nhất, suốt từ trung ương đến tận cơ sở.
Special format of this model is a special
quyền và các quyền XHCN (về quyền sẽ
xem xét ở mục 3).
Các quyền XHCN mô hình trong tổ chức và
vận hành của máy tính nhà nước và tổ chức
chức năng thực hiện quyền lực nhà nước theo lãnh đạo
thổ tả xuất xứ là “mô hình Xô – Viết”. Theo đó
mọi quyền lực đều đặn nằm trong tay
tay các xit-viết, bao gồm Xô-Viết tối đa ở giữa
bù và Xô-Viết ở địa phương cấp. Tất cả
cả các bài viết xôm tụ đều đặn được tạo thành một bậc
hệ thống the best, the first system is Xô-Viết tối đa
cao, Xô-Viết cấp dưới trực thuộc, chịu trách nhiệm
nhiệm trước Xô-Viết cấp trên. Bầu cử
Xô-Viết ra khỏi cơ quan điều hành của các xit-viết: đó là
Che phủ chính và ban quản trị chấp hành các bài viết,
Tức là nhà điều hành cơ quan nước ở
địa phương phương. Ban lãnh đạo chấp nhận các bài viết
của các Doanh nghiệp quản lý Medium method thuộc Xô-Viết cùng
cấp,
medium is the board of accept the executive of the Xô-
Viết cấp trên. This is a current
nguyên rule trực tiếp hai chiều (song song trực thuộc)
trong tổ chức và vận hành của
các cơ quan nước quản lý ở địa phương, một
đặc trưng of the Xô-Viết model. mặt khác, các
cơ quan quản lý quản lý ở địa phương cũng trực thuộc hai
chiều: medium is the board of the crash of the xit-
hành trực tiếp write method, medium thuộc các
cơ quan
N.C. Việt / Tạp chí Khoa học đại họcQGHN, Luật học 26 (2010)
214-228 218 Quản lý cấp trên. Như vậy, hãy kiểm tra tư cách
pháp lý của các quyền địa phương theo
mô hình Hình Xô-Viết thì họ có “tính hai mặt”: vừa
đại diện cho nhân dân địa phương, vừa đại diện
cho nhà nước trung ương. This is a
đặc trưng other with the nước ngoài nói chung, at that a base
quan hoặc đại diện chỉ cho địa phương nhân,
hoặc chỉ đại diện cho nhà nước trung ương.
Ví dụ hiện nay của mô hình Xô-Viết là mô
Hình ảnh các quyền địa phương của Việt Nam:
Chính quyền địa phương bao gồm đồng
hội nhân dân (dưới đây: HĐND) và ban nhân
dân (dưới đây: UBND).
The two surface of the HĐND could be current, example, at
quy định của Điều hành 119 Hiến pháp –
Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001):
“Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện
vọng vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân
dân bầu cử, chịu trách nhiệm trước
nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp
on ”. Là cơ quan quyền lực nhà nước ở
địa phương phương thức, nó chịu trách nhiệm trước
cơ quan nhà cấp nước về việc thực thi các quyền
nhà nước ở địa phương, vì nhân dân
địa phương bầu chọn nên chịu trách nhiệm trước
kernel local.
Vì vậy, tuy mọi người có bàn về công việc ngày nay
should not coi HĐND các cấp giống nhéu với Quốc
hội tạo thành một hệ thống
trực tiếp nhất thuôc theo bậc trên – dưới, nhưng trên thực
tế họ vẫn tạo thành
bậc hệ thống đơn vị hành chính – địa chỉ lãnh thổ, đơn vị hành
chính
small is in the big life is unit, HĐND
of small action đơn vị cũng trực thuộc
Hội đồng của đại đơn vị hành chính như “cấp
under ”with“ level on ”và the best of the
(tỉnh, thành phố trực tiếp huộc trung ương)
thuộc Quốc hội. This hệ thống trực thuộc chỉ có
in quyền và quyền tập tin mô hình, không
has in the permissions mô hình.
Tính hai mặt của UBND có khả năng hiện, ví dụ,
ngay at the current quy định của Điều lệ 123 Hiến pháp
hành: “Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân
bầu là cơ quan chấp hành của hội đồng nhân dân, cơ quan điều hành
nhà nước ở
địa phương phương pháp, trách nhiệm chấp hành,
luật, văn bản của nhà nước cấp
on and the quyết liệt của hội đồng nhân sự ”.
This is could not beined a rule of group function song
Duplicate (hai chiều) trực thuộc.
Xô-Viết mô hình có đặc
nguyên Trưng bày trong tổ chức thực hiện các quyền của nhà
nước nói chung và trong tổ chức thực hiện
quyền lực nhà nước theo lãnh thổ nói riêng:
Add to lãnh đạo, toàn quyền của các xÔ
viết (quyền lực nhân dân hay dân chủ xã hội chủ nghĩa),
trực tuyến dân chủ tập trung, song trùng (hai chiều) trực tiếp
thuộc. Về chất lượng thực, các
quyền XHCN
mô hình như là một tổng hòa mô hình (hay tổng hợp) cả
quyền các yếu tố, quyền, phân quyền,
in that the director is license. Nó như
could not be current features in concept “parse
level management ”của Việt Nam.
Theo nguyên tắc cấp lãnh đạo,
các nhà quản lý nước từ trung ương tới địa
điểm method are under the best leader
một cách trực tiếp, toàn diện và tuyệt đối của
các tương ứng cơ bản của hệ thống cộng đồng. Lãnh
direct direct is not through a
thông báo any other time. Lãnh đạo toàn diện nghĩa
is lãnh đạo mọi lĩnh vực, mọi vấn đề trong
tổ chức năng và vận hành của các quyền chính không có
Ngoại lệ. Còn lại tuyệt đối lãnh đạo nghĩa là quyền
lãnh đạo không chia sẻ cho bất kỳ cơ quan, tổ
chức any other function. Các
nguyên tắc áp dụng hình thức cộng sản lãnh đạo như thế này, bên
cạnh các liên kết
tích cực kết quả, cũng phát sinh thường xuyên hạn chế,
nhất is the current current bao biện pháp thay thế nhà nước
mà các nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn phải đối mặt với
mong tìm kiếm phục hồi giải pháp.
Nguyên tắc quyền của các bài viết được
Cannot show at all permissions on the country on
nhân dân, nhân dân trao tất cả quyền lực nhà
nước của mình cho các bài viết (dân cư
cơ sở cử các cấp) qua bầu cử, mọi cơ quan nhà nước
Main master at the center and local method đều đặn làm
cơ quan cử tri thành lập và chịu trách nhiệm
trước cử tri cơ sở. vì vậy, tập tin
mô hình quyền XHCN không thừa nhận phân tích học tập
N.C. Việt / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 26 (2010) 214-228 219
chia quyền lực, mà chỉ tiếp thu hạt nhân hợp lý
of this theory at “the case” ba
quyền.
Theo nguyên tắc trung tâm dân chủ, các
cơ sở quan nhà nước ở địa phương đều nằm trong
hệ thống Trực thuộc hệ thống theo thứ bậc chặt chẽ với các
cơ quan nhà nước ở trung ương, kể cả các
cơ cử tri quan cũng không phải là ngoại lệ, mặc dù,
chính quyền trung ương không bổ nhiệm
nhân chốt chủ của các quyền địa phương. Các
cơ quan bầu cử các cấp ở địa phương
bầu trực tiếp, đến lượt mình lại các cơ quan
bầu ra / miễn phí các cơ quan chấp hành
mình. Cơ quan chấp nhận sự điều hành của các tổ chức
cơ quan cử tri ở địa phương và
cơ quan thẩm định các quyền riêng tư (local, database, room, ban
trực thuộc
cấm chấp nhận điều hành) của chính quyền địa phương
các nước XHCN theo xitô hình đều đặn
in the direct system view – integer
song trùng (hai chiều) trực thuộc trong tổ chức
and active of the main house
water at local. If ba nguyên tắc trên
chủ yếu tố hiện diện tệp trung, cạnh dân
chủ rất mờ nhạt, thì nguyên tắc của
các công cụ chính là các quyền chủ nhân
nguyên dân hay dân chủ XHCN.
Các quyền XHCN mô hình với tài nguyên
rule on under the edge khía cạnh và thực hiện
quyền lực nhà nước theo lãnh thổ ở Việt Nam
có các đặc thù, kể cả để so sánh với
mô hình viết thư. This model is could not be current tool to
quan hệ trực thuộc về tổ chức và vận hành
giữa cơ quan hành chính với HĐND cùng cấp,
giữa cơ quan quản lý và HĐND cấp dưới
with the main executive and the level of. Làm
Ý nghĩa của các công cụ định nghĩa nên ở đây
chúng ta cần dừng lại để xem
đặc trưng của họ.
Quan hệ trực thuộc về tổ chức thường
Cannot qua quyền bầu cử hay bổ nhiệm, miễn
nhiệm vụ, bãi bỏ trách nhiệm, trách nhiệm, cảnh báo hoặc
cách chức. Quyền bầu cử, miễn nhiệm, bãi nhiệm
thường đặc trưng cho quan hệ giữa HĐND và
Ủy ban hành chính (dưới đây: UBHC) / UBND
cùng cấp. Sắc lệnh số 63 ngày 23-11-1945 của Chủ tịch nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa về
the main permissions (under here:
command 63) but quy định rất đặc biệt là UBHC
on the hai level UBHC level under the function after
when there are result of the people bỏ phiếu bất tín nhiệm
UBHC (28, 31). The law after this
không có quy định về chế tài từ chức, dù là đối
với cá nhân hay tập thể UBND. Từ Luật tổ chức
HĐND và UBND năm 1994 còn quy định thêm
quyền của Chủ tịch UBND điều động Chủ tịch,
các Phó Chủ tịch UBND cấp dưới trực tiếp.
Luật tổ chức HĐND và UBND 2003 (dưới đây:
Luật 2003) còn quy định thêm quyền của Chủ
tịch UBND đình chỉ công tác của Chủ tịch, các
Phó Chủ tịch UBND cấp dưới trực tiếp (Điều
127).
Gắn liền với quyền bầu là quyền phê chuẩn
kết quả HĐND bầu UBHC/UBND cấp dưới
(quy định này có từ Sắc lệnh 63 (các điều 16,
26, 46) và tồn tại đến tận Luật 2003 (Điều 119,
127). Chế tài mạnh, cứng rắn nhất về mặt tổ
chức là quyền giải tán UBHC hoặc HĐND cấp
dưới đây. Quyền này cũng có từ Sắc lệnh 63 và tồn
tại đến tận ngày nay. Nhưng trong Sắc lệnh 63
thì quyền này được áp đặt đối với cả HĐND và
UBHC, song phải do UBHC hoặc Chính phủ
thực hiện đối với cả HĐND hoặc UBHC dưới
hai cấp, trừ việc giải tán UBHC kỳ (các điều 7,
8, 19, 29, 38, 49, 60). Vấn đáng lưu ý là Sắc
lệnh không chỉ chú ý quy định chế tài này trong
nhiều điều do đặc thù của thời chiến và đấu
tranh giai cấp đang diễn ra mạnh mẽ khắp nơi,
mà còn quy định chi tiết trình tự thực hiện. Còn
các luật sau này và ngay cả trong Luật năm
2003 hiện hành (các điều 17, 25, 64) chỉ quy
định quyền của HĐND cấp trên trực tiếp áp đặt
việc giải tán đối với HĐND cấp dưới trực tiếp
và chỉ quy định đơn giản quyền mà không quy
định chi tiết trình tự thực hiện như Sắc lệnh 63.
Riêng Sắc lệnh 63 còn có quy định quyền rất
đặc biệt là UBHC huyện có quyền cảnh cáo
HĐND xã (Điều 8).
Quan hệ trực thuộc nói trên về mặt hoạt
động được thể hiện qua các quy định định,
thông thường nhất, về quyền của cơ quan hành
chính hoặc HĐND cấp trên đình chỉ hoặc bãi bỏ
N.C. Việt / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 26 (2010) 214-228 220
quyết nghị/nghị quyết/quyết liệt (gọi chung là
“quyết liệt”) của cơ quan hành chính hoặc
HĐND cấp dưới (Sắc lệnh 63, ví dụ: Điều 8,
78, 82, gọi là “thủ tiêu quyết nghị”, tức là hủy
bỏ). Quyền đình chỉ hoặc bãi bỏ quyết định thì
pháp luật các nước thường vẫn có. Riêng quyền
sửa đổi quyết định – loại quyền đặc trưng của
cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp [1],
được quy định trong Luật tổ chức chính quyền
địa phương năm 1958, Luật tổ chức HĐND và
UBHC năm 1962, Hiến pháp 1980 và Luật tổ
chức HĐND và UBND năm 1983, 1989. Một
quyền đặc trưng của mô hình quản lý tập trung
là quyền phê duyệt, duyệt y, phê chuẩn quyết
định trước khi thi hành (quy định này cũng có
từ Sắc lệnh 63 (các điều 70, 71, 78, 84, 85, 88,
90) và tồn tại cho đến ngày nay (các điều 82,
83, 86, 97, 111 … Luật 2003).
Như vậy có thể thấy mô hình tập quyền
trong tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước
theo lãnh thổ là mô hình truyền thống, xuất hiện
sớm nhất trong lịch sử và tồn tại rất vững bền.
Nhưng cùng với chiều hướng dân chủ hoá, xã hội
hoá vì sự phát triển, mô hình tập quyền trong tổ
chức chính quyền nhà nước dần dần được thay
thế bằng mô hình phân quyền.
3. Tản quyền
Tản quyền, theo tiếng Pháp là
“deconcentration”, theo một chuyên gia Pháp,
thì đó là “chính sách thông qua đó các công
chức nhà nước trung ương tại địa phương, do
nhà nước trung ương cử xuống địa phương,
được giao những thẩm quyền mà trước kia do
các bộ trực tiếp nắm giữ” [2].
Lý thiết về tản quyền có thể nói là được bắt
đầu từ Hoàng đế Napoleon và khoa học luật
hành chính Pháp. Đây là hình thức tổ chức quản
lý nhà nước thường nhật của các nước đang phát
triển. Theo nguyên tắc này, quyền lực nhà nước
vẫn được tập trung vào trung ương, nhưng nhà
nước trung ương cử (bổ nhiệm) đại diện của
mình về các đơn vi hành chính – lãnh thổ trực
thuộc để tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước. Các đại diện của
trung ương không những thực
hiện quyền giám sát địa phương mà còn trực
tiếp thực hiện quyền lực ngay tại địa phương
thông qua các nhân viên, các bộ phận do mình
bổ nhiệm, thành lập. Các đại diện của trung
ương nằm tại các đơn vị hành chính không có
tư cách pháp nhân, không được có tiềm lực
pháp lý để kiện tụng, không có của cải/tài sản và ngân
sách riêng, mọi việc đều đặn chịu trách nhiệm trước
chính quyền trung ương.
Theo nguyên tắc tản quyền, quyền quyết
định được phân chia cho thường xuyên cơ quan và cá
nhân. Trong số những cơ quan này, có một cơ
quan đứng đầu, các bộ phận còn lại trực thuộc
cơ quan cấp trên, như vậy, cơ quan đứng đầu là
trung tâm của các cơ quan tản quyền trực thuộc.
Chính Vì vậy, tản quyền cũng là tập trung quyền
lực, nhưng các bộ phận tản quyền được tổ chức
theo thứ bậc cả về văn bản và về nhân sự. Tản
quyền được coi là biện pháp hữu hiệu để vừa
chống tập trung quan liêu vừa chống khuynh
hướng phân tán, tự do tùy tiện.
Nguyên tắc tản quyền trong có những đặc
điểm, ưu điểm và nhược điểm sau:
Đặc điểm:
– Quyền lực nhà nước vẫn được tập trung
vào trung ương;
– Nhà nước trung ương không những thực
hiện quyền giám sát địa phương mà còn trực
tiếp thực hiện quyền lực ngay tại địa phương
thông qua các nhân viên, các cơ quan do mình
bổ nhiệm, thành lập;
– các bộ phận tản quyền chỉ thực hiện các
nhiệm vụ và quyền hạn do chính phủ giao,
không có quyền can thiệp vào công việc của
chính quyền địa phương;
– các cơ quan tản quyền cấp dưới có thẩm
quyền, nhưng là thẩm quyền là do được uỷ
quyền chứ không phải là thẩm quyền độc lập;
– các cơ quan tản quyền được tổ chức theo
thứ bậc hành chính cả về văn bản (văn bản cấp
trên hiệu lực cao hơn cấp dưới, cấp dưới phải
chấp hành văn bản cấp trên, trái thì bị cưỡng
chế) và về nhân sự (cơ quan, cán bộ cấp trên
N.C. Việt / Tạp chí Khoa học đại họcQGHN, Luật học 26 (2010)
214-228 221 cao hơn cơ quan, cán bộ cấp dưới, có quyền áp
dụng các chế tài kỷ luật đối với cơ quan, cán bộ
cấp dưới, kể cả giải tán, cách chức);
– Sự kiểm tra thực hiện bởi cấp trên trực
tiếp theo thứ bậc hành chính, có hiệu lực hành
chính (có quyền huỷ bỏ, đình chỉ, sửa đổi, thay
thế văn bản của cơ quan cấp dưới cả vì lý dó bất
hợp pháp và bất hợp lý);…
Ưu điểm:
– Bảo đảm lợi ích trung ương;
– Do cơ quan tản quyền gần dân, hiểu được
quyền lợi cũng như tâm tư và nguyện vọng của
nhân dân địa phương nên một vài vấn đề của
trung ương được giải quyết ở địa phương bảo
đảm tính kịp thời, sát thực với tình hình địa
phương, đảm bảo được quyền lợi địa phương;
– Đơn giản hoá tổ chức và điều hành của bộ
máy hành chính trung ương, đồng thời tăng
cường hiệu năng của bộ máy hành chính địa
phương. Các nhà chức trách địa phương “gánh
vác” công việc đỡ trung ương, tạo khó khăn để
chính quyền trung ương tập trung giải quyết
những vấn đề mang tính chiến lược tầm quốc gia;
– các cơ quan tản quyền đóng ngay ở địa
phương nên gần dân hơn, có khả năng dung hoà được
quyền lợi giữa trung ương và địa phương, tạo
được uy tín của trung ương đối với nhân dân
địa phương,.
hạn chế:
– các cơ quan tản quyền – các nhà chức
trách do chính quyền trung ương bổ nhiệm và
điều khiển nên không thể và không có đủ quyền
lực để bảo vệ triệt để quyền lợi của địa phương;
– Cũng vì lý Vì vậy nên địa phương vẫn còn
bị lệ thuộc vào trung ương, không phát huy
được mạnh mẽ tính chủ động, sáng tạo của
chính quyền địa phương;
– Nếu sự kiểm soát của trung ương lỏng lẻo
dễ phát sinh tình trạng lạm quyền của các cơ
quan tản quyền;
– Có nguy cơ kéo theo sự khác biệt giữa các
địa phương do có những quan điểm, chính sách
và phương pháp quản lý khác nhau. Mô hình chính quyền địa phương
theo
nguyên tắc tản quyền thuần túy chỉ thấy ở các
nước quân chủ, nhưng Hiện tại dạng tản quyền
thuần túy cũng hiếm gặp, hoặc chỉ tồn tại như
giai đoạn “chính quyền quân quản”. Thường
thấy có sự kết hợp giữa tản quyền với phân
quyền. Ngay mô hình tập quyền XHCN của
Việt Nam là có yếu tố tản quyền kết hợp với
phân quyền và cộng thêm những đặc thù do bản
chất XHCN như đã phân tích trên (mục 2.2). Vì
thế, vấn đề này sẽ được nói tới trong mục 4 về
mô hình chính quyền địa phương kết hợp giữa
tản quyền với phân quyền.
4. Phân quyền
4.1. Khái niệm phân quyền
Phân quyền theo tiếng Anh và tiếng Pháp là
“decentralization”. Đúng ra thì ngôn từ
“decentralization” có thường xuyên nghĩa, mà nghĩa
chính xác nhất là phi tập trung hóa, vì
“centralization” là tập trung hóa. Theo nghĩa đó
thì có thể nói giản đơn rằng “decentralization” tức
là dân chủ, vì tập trung đối ngược với dân chủ.
mặc khác, vấn đề không giản đơn như vậy.
“Decentralization” thường nói tới ở đây là
“administrative decentralization”, tức là phi tập
trung hóa quản lý. Theo các tác giả J.M. Cohen
và S.B. Peterson, những người đã có một công
trình thống kê trong 20 năm về phi tập trung
hóa quản lý và phân quyền, rằng:
“administrative decentralization” là… sự chuyển
giao trách nhiệm về lập kế hoạch, quản lý, nâng
cao và phân bổ các nguồn lực từ chính phủ
trung ương và các bộ phận của nó tới các đơn vị
khu vực của các cơ quan chính phủ, các đơn vị
cấp dưới hoặc các cấp chính quyền, các bộ phận
chức trách hoặc các tổng công ty nhà nước bán
tự chủ, các cơ quan đương cục chức năng hoặc
khu vực trong phạm vi toàn địa bàn, hoặc các tổ
chức tự nguyện hoặc tổ chức tư nhân ngoài
quốc doanh.
Các cách thức của phi tập trung hóa quản lý
là tản quyền, phân quyền và ủy quyền. Theo các
N.C. Việt / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 26 (2010) 214-228 222
tác giả này, thì: tản quyền là sự chuyển giao
quyền về những trường hợp ra quyết liệt cụ
thể, những chức năng tài chính và quản lý cụ
thể bằng các phương thuận tiện hành chính cho các
cấp khác nhau, song quyền lực về pháp lý vẫn
là của chính phủ trung ương; phân quyền là
quyền hạn được chuyển giao từ chính phủ trung
ương đến các đơn vị chính quyền địa phương
được hưởng qui chế theo luật định; còn uỷ
quyền là việc chuyển quyền ra quyết định của
chính quyền và quyền hành để thực hiện các
nhiệm vụ được xác định một cách rõ ràng cho
các tổ chức hoặc Doanh nghiệp ở dưới quyền quản lý
gián tiếp của chính phủ hoặc tổ chức/Doanh nghiệp
độc lập [3].
Những ý kiến này cũng rất thống nhất với
nghĩa tiếng Việt của thuật ngữ “phi tập trung
hóa quản lý” (administrative decentralization).
Vì trong quản lý nhà nước chính sách phi tập
trung hóa có khả năng thực hiện ở nhiều mức độ. Tản
quyền với nghĩa trên cũng là một mức độ phi
tập trung, nhưng về bản chất vẫn là tập trung và
chính sách này được thực hiện theo văn bản
dưới luật. Còn phân quyền mới là phi tập trung
hóa cao, chính sách này được thực hiện theo
luật hoặc hiến pháp. Còn uỷ quyền thì các tác
giả trên ngụ ý đó là sự giao quyền cho các tổ
chức nhà nước hoặc Doanh nghiệp độc lập trong việc
thực hiện các sản phẩm công.
Nói tóm lại, thuật ngữ “administrative
decentralization” là phi tập trung hóa quản lý,
và tản quyền, phân quyền và ủy quyền là các
hình thức của phi tập trung hóa quản lý. Nhưng
theo nghĩa Tây Âu thì khi đề cập đến
“administrative decentralization” là người ta nói
đến phân quyền.
Nếu hiểu đầy đủ thì ngôn từ “phân quyền”
có ba nghĩa:
Một là, học thuyết phân quyền – phân chia
quyền lực (nguyên tắc phân chia ba quyền: lập
pháp, hành pháp và tư pháp);
Hai là, phân quyền theo lãnh thồ;
Ba là, phân quyền theo chiều ngang, hay
phân quyền theo chức năng cho các bộ phận và
nhân viên. Nhưng lý thuyết luật hành chính nước ngoài
chỉ nói về hai hình thức phân quyền thứ hai và
thứ ba.
Chế độ phân quyền chức năng có nội dung
là phân định thẩm quyền (nhiệm vụ, chức năng,
quyền hạn) giữa các cơ quan, công sở và mọi
người có chức vụ theo ngành, lĩnh vực quản lý.
Sự phân chia ba nhánh quyền lực nhà nước (lập
pháp, hành pháp, tư pháp) giữa các bộ phận cao
nhất ở trung ương (đây là nguyên tắc cơ bản
quyết liệt tổ chức bộ máy hành chính, đặc biệt
ở cấp trung ương) theo nghĩa rộng thực ra cũng
là một dạng phân quyền chức năng.
Ở đây “phân quyền” được xem xét theo
nghĩa là phân quyền theo lãnh thồ. Phân quyền
theo nghĩa này là nguyên tắc tổ chức thực hiện
quyền lực theo cấp lãnh thổ, theo đó Nhà nước
trung ương chuyển giao (bằng Hiến pháp và
luật) cho các hội đồng dân biểu địa phương
những quyền hạn độc lập và tòan vẹn (bao gồm
cả phương tiện vật chất, tài chính, nhân sự…),
trong phạm vi đó nó thực hiện một cách chủ
động, độc lập và tự chịu trách nhiệm. Hiểu theo
nghĩa của Tây Âu, phân quyền trong quan hệ
với địa phương là chế độ tự quản địa phương.
Vào năm 1985, Hội đồng châu Âu đã thông
qua một Công ước bao gồm khoảng 20 điều về
quyền tự chủ của địa phương. Đây là điều ước
quốc tế duy nhất có nội dung là những nguyên tắc
chung về phân quyền, đó là các tiêu chuẩn chung
nhất về phân quyền. Các nguyên tắc đó là:
1) Quyền tự chủ của địa phương phải được
pháp luật của các quốc gia thành viên thừa
nhận, tốt nhất là thừa nhận trong hiến pháp.
2) Phân quyền được hiểu là quyền và khả
năng thực tế của chính quyền địa phương trong
việc quản lý một phần lớn những nhiệm vụ
công theo khuôn khổ của pháp luật và nhằm
phục vụ lợi ích của người dân.
3) Quyền tự chủ của địa phương được thực
hiện thông qua các hội đồng do dân bầu theo
phương thức phổ thông đầu phiếu.
4) Việc thực hiện các nhiệm vụ quản lý tốt
nhất phải được giao cho những cơ quan quyền
lực gần dân nhất có khả năng.
N.C. Việt / Tạp chí Khoa học đại họcQGHN, Luật học 26 (2010)
214-228 223 5) Thẩm quyền đã được chuyển giao cho
chính quyền địa phương chỉ có khả năng bị xem xét
lại bởi một cơ quan quyền lực cấp quốc gia
trong khuôn khổ của pháp luật.
6) Chính quyền địa phương có quyền tự xác
định cơ cấu tổ chức hành chính của mình.
7) Quy chế của các dân biểu địa phương
phải đảm bảo cho họ quyền tự do thực hiện
nhiệm vụ và quyền hạn của đại biểu dân cư.
8) Trong khuôn khổ các chính sách kinh tế
quốc gia, các chính quyền địa phương có quyền
có được những nguồn tài chính riêng và đủ cần
thiết cùng lúc ấy được tự do sử dụng nguồn tài
chính này để thực hiện những thẩm quyền được
giao [2].
Từ các nguyên tắc này, lý luận và thực tiễn
chính sách phân quyền, cần đưa ra thêm một vài
kết luận sau đây:
Một là, các cơ quan tự quản địa phương
(chỉ) đại diện cho địa phương;
Hai là, các cơ quan tự quản địa phương có
tư cách pháp nhân (có tài sản, có ngân sách, có
lãnh thổ riêng, chỉ chịu trách nhiệm trước nhân
dân địa phương và tòa án;
Ba là, một vài chế độ tự quản địa phương
điển hình có quyền tự quyết về lãnh thổ, sát
nhập hay giải thể đơn vị tự quản địa phương và
vấn đề này thường quyết định bằng trưng cầu
dân ý trong cộng đồng địa phương;
Bốn là, không tồn tại thứ bậc hành chính
giữa các chính quyền tự quản địa phương, dù là
giữa chính quyền tự quản địa phương của đơn
vị hành chính – lãnh thổ nhỏ (như công xã nhỏ)
và chính quyền tự quản địa phương của đơn vị
hành chính – lãnh thổ lớn (như tỉnh, vùng);
Năm là, chính quyền trung ương vẫn nắm
quyền kiểm soát chính quyền tự quản địa
phương dưới những hình thức khác nhéu theo
luật.
Cần phân biệt chế độ phân quyền liên bang
(như ở Mỹ, Đức) và phân quyền địa phương
(như ở Anh, Pháp, Ý). Địa phương được phân
quyền chỉ dùng quyền hành chính, còn bang
hay (tiểu bang) trong một liên bang dùng quyền của một quốc gia độc
lập: có quyền lập
hiến, quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp riêng
trong khuôn khổ của hiến pháp và luật pháp của
nhà nước liên bang. Sự kiểm soát hành chính
của trung ương với bang trong một nhà nước
liên bang lỏng lẻo hơn nhiều so với sự kiểm
soát của trung ương đối với địa phương trong
một nhà nước đơn nhất. Hơn nữa, quyền hành
chính dành cho trung ương hay địa phương theo
chế độ phân quyền là do hiến pháp và các luật
quốc gia quy định; còn quyền dành cho bang
hay liên bang do hiến pháp liên bang quy định.
do đó, phạm vi thẩm quyền của mỗi tiểu bang
được đảm bảo chắc chắn vì muốn sửa đổi hiến
pháp liên bang, phải áp dụng một hồ sơ phức
tạp. Trái lại, nếu muốn tăng thêm hay giảm đi
quyền hành của một địa phương phân quyền,
chính phủ trung ương chỉ cần ban hành một đạo
luật thường (trừ những quyền hiến định thì mới
phải sửa đổi hiến pháp).
Việc áp dụng nguyên tắc phân quyền có
những ưu điểm và Giảm sau:
Ưu điểm:
– Tôn trọng những đặc điểm, bảo vệ và phát
triển lợi ích, mong muốn của từng địa phương, các
công việc được quyết định phù hợp với lợi ích
thực tế của địa phương;
– Tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân địa
phương tham gia vào quản lý nhà nước, là hình
thức thực hiện và phát huy dân chủ tốt nhất;
– Chính quyền địa phương có quyền tự trị nên
có thể bênh vực quyền lợi địa phương tốt hơn;
– Là cách thức tổ chức thuận lợi nhất cho
việc dân kiểm tra chính quyền, hạn chế hấp dẫn nhất
nạn tham nhũng, lãng phí, phiền hà, sách nhiễu,
vi phạm pháp luật ở địa phương;
– giảm bớt khối lượng công việc của bộ
máy hành chính nói chung và chính quyền
trung ương nói riêng. do đó, chính quyền trung
ương có thể tập trung vào niệm vụ quản lý vĩ
mô mang tính chiến lược tầm quốc gia;…
hạn chế:
– Các nhà chức trách do dân địa phương bầu
nên có khả năng không được đào tạo, không có đủ
N.C. Việt / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 26 (2010) 214-228 224
có khả năng chuyên môn, nghiệp vụ và thiếu kinh
nghiệm để đảm đương công việc hành chính;
– Các nhà chức trách địa phương được bầu
thường là từ lãnh tụ của các nhóm xã hội, đảng
phái… nên có khả năng không hoàn toàn vô tư trong
công việc;
– Sự kiểm soát của trung ương có khả năng lỏng lẻo
nếu không có những hình thức và phương pháp
quản lý tinh vi, chặt chẽ, nên trong tình hình đó có
xu hướng lạm chi công quỹ hoặc sử dụng không
hiệu quả ngân sách của địa phương;
– có khả năng các nhà chức trách địa phương do
quá chú trọng vào quyền lợi địa phương mà sao
nhãng quyền lợi quốc gia, nên có thể làm tăng
sự khác biệt giữa các địa phương vì có những
khó khăn, quan điểm, chính sách và phương
pháp quản lý khác nhéu.
4.2. Chính quyền địa phương theo nguyên tắc
phân quyền
Dưới khía cạnh lịch sử, theo cách hiểu
thông thường thì trong xã hội dân chủ quân sự,
nô lệ và phong kiến cũng tồn tại chính quyền
địa phương phân quyền, nhưng đó là “phân
quyền cát cứ”. Trong nhà nước phong kiến
phương Đông thì giai đoạn phân quyền cát cứ
tồn tại trước giai đoạn nhà nước trung ương tập
quyền. Hiểu rộng hơn khái niệm phân quyền
theo nghĩa các yêu tố/mầm mống của học
thuyết phân chia quyền lực thì từ nhà nước chủ
nô cũng đã có phân quyền. Nhưng phân quyền
nói ở đây là hiểu theo nghĩa hiện đại, là nguyên
tắc tổ chức quản lý địa phương thời đại văn
minh, bắt nguồn từ các nước Âu – Mỹ. Chính
quyền địa phương tổ chức theo nguyên tắc này
còn gọi là chính quyền địa phương đại diện.
hiện nay là cách thức thường nhật trên thế giới.
Chính quyền địa phương theo nguyên tắc
phân quyền thuần túy tồn tại ở các nước theo hệ
thống pháp luật Anh – Mỹ.
Ở Mỹ bộ máy hành chính chỉ là chính
quyền liên bang và bang, dưới bang chỉ là chính
quyền tự quản. Tổ chức tự quản địa phương
theo tu chính án số 10 của Hiến pháp Mỹ thuộc thẩm quyền của các
bang. Đa số các bang quy
định tổ chức đó dưới dạng chung nhất. Hơn 40
bang ấn định rằng quốc hội bang không có
quyền thông qua luật điều chỉnh một cách chi
tiết vấn đề quản lý của địa phương. do đó tổ
chức và vận hành của các cơ quan tự quản địa
phương do các địa phương tự quy định nên rất
tự do, đặc biệt đối với đô thị, các tổ chức và
thẩm quyền của chúng rất phong phú, không theo
một khuôn mẫu nào.
Theo một tài liệu xuất bản năm 1990 [4] thì
50 bang được chia thành gần 3 ngàn lãnh địa
(có tài liệu dịch là “quận”), gần 19 ngàn đô thị
(bao gồm cả các thị xã, thị trấn), gần 19 ngàn
huyện và xã, mặt khác còn các tổ chức tự quản
không phải là đơn vị hành chính – lãnh thổ: gần
14,5 ngàn khu trường phổ thông và gần 33 ngàn
các khu đặc biệt. Các lãnh địa là vùng nông
thôn. Đa số dân của các bang sống trong các đô
thị. Các trang trại giống như một dạng Doanh nghiệp
chỉ có ở 20 bang.
Ở Anh cũng vậy: bộ máy hành chính nhà
nước chỉ có ở trung ương. Tổ chức tự quản địa
phương ở Anh trong quan hệ với trung ương
trước đây có tính độc lập tương đối hơn so với
Mỹ và với các nước khác. Nhưng các luật ban
hành năm 1980 – 1989, trái ngược với phần lục
địa của châu Âu, lại tăng quyền trung ương lên
khá nhiều, đồng thời Giảm quyền chủ động
của các cơ quan tự quản địa phương. Các bộ
phận cấu thành của Liên hiệp Anh (Anh, xứ
Uên, Xcốtlen và Bắc Ailen), cũng như thủ đô
của nó được quản lý một cách khác nhau. Luân
đôn là nơi được tổ chức quản lý một cách đặc
biệt, bao gồm Luân-đôn Lớn và Luân-đôn Nhỏ
(London City). Theo các đạo luật về tự quản địa
phương năm 1972 và năm 1985, Anh được chia
ra thành 39 lãnh địa (có tài liệu dịch là “quận”)
và có 36 đô thị, 296 khu, hơn 10.000 giáo phận.
Như vậy, tên gọi các đơn vị lãnh thổ tự
quản ở Mỹ và Anh rất đa dạng, rất khác với
phần lục địa của châu Âu.
Cách tổ chức chính quyền tự quản địa
phương Anh – Mỹ cũng có những nét rất đặc
thù, nhất là ở Mỹ, vì hơn 40 bang không có luật
N.C. Việt / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 26 (2010) 214-228 225
chung mà do địa phương tự quyết. Ngoài Hội
đồng dân biểu là cơ quan tự quản như mọi nơi
trên thế giới, thì cách tổ chức bộ máy chấp hành
rất đa dạng, tùy thuộc đặc điểm, truyền thống
lịch sử của từng địa phương: Mer (thị trưởng)
do dân bầu trực tiếp, do hội đồng dân biểu bầu,
do thuê, hoặc Hội đồng trực tiếp quản lý (không
có thị trưởng) ở các cộng đồng số dân ít.
4.3. Chính quyền địa phương theo mô hình kết
hợp phân quyền và tản quyền
Đây là mô hình bên cạnh các hội đồng địa
phương tự quản và cơ quan chấp hành riêng của
mình (gọi chung là “cơ quan tự quản địa ph-
ương”), còn có cơ quan hành chính nhà nước
của chính phủ trung ương đặt tại địa phương
(cơ quan tản quyền). Cơ quan tản quyền và cơ
quan tự quản địa phương có quan hệ với nhau
trên lĩnh vực công tác theo luật phân quyền,
không theo quan hệ thứ bậc hành chính (Pháp
và các nước theo mô hình Pháp, như Đức, Ý).
Nước Pháp có ba cấp đơn vị hành chính –
lãnh thổ: 26 vùng (kể cả 4 vùng đặc biệt là
Paris, Lyon, Macxây, đảo Cooc và 4 vùng lãnh
thổ hải ngoại), 100 tỉnh, do Napoleon đệ nhất
lập ra sau Cách mạng 1789 và 36779 công xã
[5] (bao gồm cả đô thị và nông thôn). Ở Pháp
một làng nhỏ, một thị trấn nhỏ hơn 100 dân
cũng là một công xã, nhưng cả Paris nhiều triệu
dân cũng là một công xã và các công xã lớn,
nhỏ khác nhéu nhưng không nằm trong nhéu.
Các công xã có khả năng nằm trong tỉnh, thường xuyên tỉnh
hợp lại thành vùng, nhưng có tỉnh chỉ là một
công xã như Paris. Sau cải cách chính quyền địa
phương 1982 – 1989 các vùng mới nhận được
quy chế tự quản, nhưng không đầy đủ, nhưng từ
sau cải cách này, Chủ tịch tỉnh là Chủ tịch Hội
đồng, tuy trước đó tỉnh trưởng kiêm. Trước đây
còn có cấp khu, nhưng không chính thức về mặt
hành chính: cả nước có 8 khu, mỗi khu do một
số vùng hợp thành, chưa kể khu thứ 9 bao gồm
4 vùng lãnh thổ hải ngoại [6]. Còn có thông tin
là 100 tỉnh của Pháp chia thành 342 huyện, mỗi
tỉnh bao gồm từ một đến bảy huyện, nhưng
không chính thức [5]. CHLB Đức có bốn cấp đơn vị hành chính –
lãnh thổ: 16 bang, chia thành 50 vùng (khu) (có
tài liệu dịch là “tỉnh”), hơn 360 hạt (có tài liệu
dịch là “huyện”) và khoảng 180 đô thị tương
đương hạt, và công xã. Ý có ba cấp đơn vị hành
chính – lãnh thổ: 10 vùng, 95 tỉnh (và 8 đang
hình thành), khoảng 1800 công xã [7]. Ở Đức
và Ý công xã là đơn vị lãnh thổ nhỏ nhất, và
các công xã nằm trong hạt (giống như huyện ở
Việt Nam) hoặc tỉnh, hạt hoặc tỉnh nằm trong
vùng, nhưng về mặt hành chính thì công xã, hạt
và vùng không nằm trong quan hệ thứ bậc trên
dưới như ở Việt Nam.
Hạt nhân của chế độ tự quản địa phương ở
Châu Âu lục địa (trừ Anh) là công xã, là lãnh
thổ cơ bản nhất của chế độ tự quản địa phương,
tuy trong các quốc gia phạm vi của các công xã
to nhỏ khác nhéu. Các vùng, tỉnh, hạt và công
xã ở Pháp hoặc Đức, Ý đều có quy chế tự quản
địa phương, tuy về mức độ thì công xã có quy
chế tự quản địa phương đầy đủ nhất.
Trước đây ở Tây Âu chính quyền trung –
ương, ví dụ như Bộ Nội vụ ở Pháp, ở Anh, còn
ở Đức là cơ quan kiểm tra pháp luật, thực hiện
chính sách giám hộ hành chính, và chỉ kiểm tra,
kiểm soát đối với các văn bản, chứ không phải
về mặt nhân sự: phê chuẩn, đình chỉ, sửa đổi
hay huỷ bỏ các quyết liệt, ban hành các quyết
định thay các pháp nhân tự trị. Riêng ở Tây Âu
từ sau cải cách về chính quyền địa phương
(1982-1990), chỉ còn phổ biến hình thức kiểm
soát thông qua tài phán hành chính.
Cơ quan tản quyền ở Pháp, Ý chỉ đến cấp
tỉnh, nhưng từ tỉnh có khả năng quản lý các lĩnh vực
và giám sát hoạt động của cơ quan tự quản địa
phương. Ở Đức thì cơ quan tản quyền chỉ đến
cấp khu (vùng), còn hạt trưởng do dân bầu hoặc
do Hội đồng dân biểu hạt bầu, nhưng lại có
quyền hành chính, là cơ quan giám sát pháp luật
cấp thấp nhất của nhà nước trung ương, cùng
với hai cơ quan giám sát pháp luật cấp trên là
vùng trưởng, Bộ Nội vụ bang.
Thường thì các vấn đề có tính chất địa
phương thì luật giao quyền hoàn toàn cho địa
phương tự quyết, như điện nước, y tế, trường
N.C. Việt / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 26 (2010) 214-228 226
học, đất đai, đường thuộc công xã hoặc liên xã,
các dịch vụ bảo đảm xã hội và các dịch vụ cộng
khác, bảo đảm trật tự trị an công cộng như
phòng cháy chữa cháy, … Còn các vấn đề như
quốc phòng, quân đội, an ninh quốc gia, cảng
hàng không, cảng biển, đường sắt, đường quốc
lộ,… do nhà nước quản lý. Có nước sản phẩm y
tế, giáo dục và nhân viên, công chức y tế, bác
sĩ, giáo viên hoàn toàn giao cho địa phương,
nằm trong loại “công chức địa phương”, độc lập
với “công chức nhà nước”. Nhưng có nước như
Pháp lại phân ra ba loại công chức: công chức
nhà nước, công chức y tế, công chức địa
phương. các cơ quan tự quản địa phương, cũng
như nhà nước nói chung, thường không can
thiệp, không quản lý vận hành của doanh
nghiệp, mà hoàn toàn giao cho tư nhân. Nhưng
nhà nước điều chính gián tiếp vĩ mô bằng các
chiến lược, các chính sách kinh tế và bằng pháp
luật và các giải pháp hỗ trợ hoạt động của các
công ty.
Phân quyền và tản quyền đều đặn có ưu điểm và
hạn chế. do đó mô hình chính quyền địa ph-
ương kết hợp phân quyền và tản quyền có thể là
giải pháp tối ưu phát huy ưu điểm và hạn chế
nhược điểm của chúng. Theo một góc nhìn
khác, đây cũng là tập trung dân chủ theo kiểu
Tây Âu: tản quyền là tập trung, phân quyền là
dân chủ.
5. Tản quyền, phân quyền và phân cấp quản
lý: Quan hệ và phân biệt
5.1. Phân biệt tản quyền với phân quyền
Trong tản quyền, các cơ quan tản quyền cấp
dưới có tư cách pháp nhân không đầy đủ, nói
cách khác nó chỉ được ủy quyền thực hiện tư
cách pháp nhân của trung ương. Cơ quan tản
quyền có thẩm quyền nhưng thẩm quyền đó
không thực sự là của nó mà do được uỷ quyền
mới có. Sự kiểm tra trong tản quyền có hiệu lực
lớn hơn so với sự kiểm tra trong phân quyền.
Quyền kiểm tra mang tính mặc nhiên và mang
tính bản chất, nó được coi là một cơ chế tự nhiên và không cần có
một văn bản nào quyết
định, cơ quan quan lý cấp trên có quyền hủy bỏ,
đình chỉ, thay thế, có khi cả quyền sửa đổi văn
bản của cơ quan cấp dưới cả vì lý dó bất hợp
pháp và bất hợp lý.
Còn trong phân quyền, các địa phương có
tư cách pháp nhân đầy đủ, có thẩm quyền độc
lập riêng của mình, quyền này do hiến pháp và
các văn bản luật thừa nhận chứ không phải do
các bộ phận chủ quản ủy quyền. Quyền kiểm tra
do luật định, cơ quan chủ quản chỉ có quyền sửa
đổi, thay thế văn bản của cơ quan phân quyền
khi văn bản đó trái với luật.
Ông Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Pháp,
Serge Degallaix nói [2] rất đúng rằng: “Những
từ ngữ như tản quyền (trong bản dịch là “phân
cấp”), phân quyền ở hai nước chúng ta không
hoàn toàn giống nhéu. Ở Pháp, tản quyền (trong
bản dịch là “phân cấp”) có nghĩa là chuyển giao
thẩm quyền từ Nhà nước trung ương xuống cho
các bộ phận của Nhà nước trung ương tại địa
phương, còn phân quyền có nghĩa là giao hẳn
một số thẩm quyền từ Trung ương cho Hội
đồng dân cử địa phương”.
5.2. Quan hệ và phân biệt giữa tản quyền và
phân quyền với phân cấp quản lý
Nếu tản quyền là khái niệm của khoa học
hành chính Pháp, thì có thể nói phân cấp quản
lý là khái niệm riêng của Việt Nam, nó khác vơi
tản quyền và phân quyền, nhưng giữa chúng có
quan hệ. Phân cấp quản lý là khái niệm phức
tạp, đúng như nhận xét tinh tế của ông Serge
Degallaix rằng: “Ở Việt Nam, phân cấp quản lý
là một sự pha trộn giữa việc chuyển hẳn một vài
quyền cho địa phương với việc thực hiện thẩm
quyền của Nhà nước trung ương tại địa phương
thông qua cơ quan Nhà nước tại địa phương.
Chúng ta cũng phải tính đến vai trò của Đảng
Cộng sản Việt Nam, một nhân tố quyền lực làm
nên sự khác biệt trong cách tổ chức hệ thống
chính trị và hành chính của Việt Nam”.
Phân cấp quản lý ở Việt Nam có vẻ giống
sự kết hợp giữa tản quyền và phân quyền,
nhưng khác với mô hình kết hợp trên của Pháp,
N.C. Việt / Tạp chí Khoa học đại họcQGHN, Luật học 26 (2010)
214-228 227 Đức, Ý ở chỗ ở Pháp, Đức, Ý thì mỗi loại cơ
quan (tản quyền hoặc tự quản địa phương) thực
hiện thẩm quyền chỉ của trung ương hoặc chỉ
của địa phương, còn ở Việt Nam thì tất cả các
cơ quan các cấp của chính quyền địa phương
đều mang “tính hai mặt”: vừa đại diện cho
trung ương thực hiện thẩm quyền của trung
ương, vừa đại diện cho địa phương thực hiện
thẩm quyền của địa phương được pháp luật
giao.
Tuy phức tạp, nhưng tựu chung lại, đó thể
kết luận “phân cấp quản lý là sự phân chia các
đơn vị hành chính – lãnh thổ và phân định thẩm
quyền hợp lý giữa các cấp chính quyền bằng
luật hoặc văn bản dưới luật cho phù hợp với
chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm của mỗi cấp
để nhằm thực thi hiệu quả hơn quyền lực nhà
nước” [8].
Đáng buồn là ngay trong tài liệu được trích
dẫn tại đầu mục 3 chúng ta gặp thuật ngữ tiếng
Pháp “deconcentration” dịch thành “phân cấp
quản lý”, nhưng trong nội dung diễn giải cụ thể
nói ở mục 3 của ngôn từ tiếng Pháp
“deconcentration” thì chính là tản quyền, vì
theo tiếng Pháp “concentration” là tích tụ, còn
“deconcentration” là phi tích tụ, đồng nghĩa với
“tản quyền”.
Giữa tản quyền với phân cấp quản lý có
những điểm chung, nhưng tựu trung lại, có thể
nói tản quyền là một hình thức của phân cấp
quản lý và cũng là một cách thức của tập quyền.
Bởi vì, nếu theo mô hình tập quyền có phân
chia trách nhiệm trong tổ chức và thực hiện
quyền lực nhà nước theo lãnh thổ là các bộ trực
tiếp nắm giữ và thực hiện thẩm quyền của nhà
nước tại địa phương, thì tản quyền là nhà nước
trung ương (chính phủ, các bộ) cử các quan
chức của mình xuống tại địa phương và trực
tiếp thực hiện thẩm quyền của nhà nước tại địa
phương. ngoài ra, phân cấp quản lý là khái
niệm của Việt Nam, về đại thể có nghĩa là phân,
chia ra thành cấp và giao cho mỗi cấp một
phạm vi những chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
nhất định để quản lý cho tiện lợi và hiệu quả.
Vậy đây chính là nội dung của nguyên tắc tản quyền. ngoài ra, Việt
Nam ta thực hiện nguyên
tắc tập quyền XHCN, như vậy, tản quyền này
cũng là một cách thức của tập quyền nói chung
và tập quyền XHCN nói riêng.
Trong sách báo chúng ta lại gặp việc dịch
thuật ngữ tiếng Anh “decentralization” là “phân
cấp quản lý”, thậm chí là “phân cấp quản lý
hành chính” [9]. Như trên đã nói,
“decentralization” theo đúng nghĩa của từ là phi
tập trung, phân cấp quản lý cũng là phi tập
trung. Vì vậy mà người ta dịch như vậy chăng.
Nhưng dịch như vậy là hoàn toàn sai khái niệm
“decentralization” của Tây Âu với nghĩa là
phân quyền. Phân quyền hoàn toàn không phải
là phân cấp quản lý. Ở Việt Nam chỉ có phân
cấp quản lý chứ chưa có phân quyền hiểu theo
nghĩa Tây Âu, vì phân quyền hiểu theo nghĩa
Tây Âu là chế độ tự quản địa phương. Chỉ có
thể nói, về mặt lý thuyết, hình thức triệt để nhất
của phân cấp quản lý là chế độ tự quản địa
phương – tức là phân quyền hiểu theo nghĩa Tây
Âu. Ở đây chúng ta không dùng ngôn từ
“phân quyền” với cách hiểu nôm na của Việt
Nam, như kiểu các ngôn từ “phân công”,
“phân nhiệm”, “phân cấp, phân quyền”; v.v…
Chính quyền địa phương các nước trên thế
giới Hiện tại được tổ chức trên cơ sở ba nguyên
tắc chung là tập quyền, tản quyền và phân
quyền như đã phân tích ở trên, nhưng đa phần
không theo y nguyên một nguyên tắc nhất định,
mà thường có sự vận dụng kết hợp các nguyên
tắc vào đặc điểm của mỗi quốc gia. Ba nguyên
tắc đó thực chất thể hiện mức độ phụ thuộc của
địa phương đối với trung ương vì trên thực tế,
bất kỳ nhà nước nào cũng cần có sự thống nhất
quyền lực. Mức độ chủ động của địa phương
mỗi nước tùy thuộc vào những đặc thù lịch sử,
dân tộc, truyền thống và những đặc điểm chính
trị của nước đó. Ba nguyên tắc này với các hình
thức pháp lý bổ trợ được kết hợp, thực hiện với
mức độ như thế nào sẽ thể hiện rất rõ bản chất
dân chủ của chế độ nhà nước. Ngày nay, các
nước trên thế giới phần nhiều áp dụng kết hợp
giữa tản quyền và phân quyền, tức là giữa chế
độ phân quyền với giám hộ hay giám sát hành
chính trên cơ sở pháp luật, hoặc chế độ phân
N.C. Việt / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 26 (2010) 214-228 228
quyền với kiểm soát thông qua trợ cấp tài chính
nhằm hướng hoạt động của địa phương vào
mục đích đã định trước.
Tài liệu tham khảo
[1] Nguyễn Cửu Việt, Đình chỉ, sửa đổi, bãi bỏ quyết
định: Lý luận, thực trạng và đổi mới, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, số 2, 1989.
[2] Kỷ yếu Hội thảo khoa học“Phân cấp, phân quyền
giữa trung ương và địa phương và quy chế đặc
thù của các thành phố lớn” tại Nhà pháp luật Việt
– Pháp ngày 1, 2 và 3 tháng 10 năm 2001.
[3] J.M. Cohen và S.B. Peterson, Phân cấp quản lý
hành chính – chiến lược cho các nước đang phát
triển (Sách tham khảo nội bộ), NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2002.
[4] các cơ quan quyền lực và quản lý địa phương của
các bang Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, NXB Ấn
phẩm Pháp lý, Maxcơva, 1990 (tiếng Nga).
[5] Http://vi.wikipedia.org/wiki/1999.
[6] Ответственный редактор Козырин А.Н.:
Административное право зарубежных стран, Издательство “СПАРК”,
Москва, 1996, ст.40
(Chịu trách nhiệm xuất bản Kođưrin.A.N, Luật
hành chính nước ngoài, NXB Xpark”, Maxcơva,
1996, tr.40).
[7] Ответственный редактор Козырин А.Н.:
Административное право зарубежных стран,
Издательство “СПАРК”, Москва, 1996, ст.40
(Chịu trách nhiệm xuất bản Kođưrin.A.N: Luật
hành chính nước ngoài, NXB “Xpark”, Maxcơva,
1996, tr.50).
[8] Nguyễn Cửu Việt, Phân cấp quản lý trong mối
quan hệ giữa trung ương và địa phương, Tạp chí
nghiên cứu lập pháp, số 7/2005.
[9] J.M. Cohen và S.B. Peterson, Phân cấp quản lý
hành chính – chiến lược cho các nước đang phát
triển (Sách tham khảo nội bộ), NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2002;
www.undp.org/governance/decentralization.htm.
Trong cuốn này người ta còn dịch
“Administrative Decentralization” thành “phân
cấp quản lý hành chính”, như vậy không chính
xác, đúng ra cần dịch thành “phân quyền hành
chính” hay chính xác hơn là “phi tập trung hóa
quản lý” .
The concepts of centralization,
decentralization and division of power
Nguyen Cuu Viet
Ho Chi Minh city Law University,
2-4 Nguyen Tat Thanh street, Ho Chi Minh city, Vietnam
The article discusses on the relationship between central and local
governments in organizing the
state power implementation. Basing on characters of models of
seperation of power between central
and local governments, the article discusses the concepts of
centralization, decentralization and
division of power. These are basic concept with theoretical and
practical significance which could be
used in separation of state power in administration in Vietnam.
Các câu hỏi về chuyên chế tập quyền là gì
Nếu có bắt kỳ câu hỏi thắc mắt nào vê chuyên chế tập quyền là gì hãy cho chúng mình biết nhé, mõi thắt mắt hay góp ý của các bạn sẽ giúp mình cải thiện hơn trong các bài sau nhé
Trả lời