• Trang chủ
  • Hỏi Đáp
  • Liên Hệ

HLink - Kênh Thông Tin Tổng Hợp Chính Thống

Bạn đang ở:Trang chủ / Hỏi Đáp / Các phẩm chất tâm lý của nhân cách

Các phẩm chất tâm lý của nhân cách

Tháng Mười 6, 2022 Tháng Mười 6, 2022 Chi Mỹ 0 Bình luận

Bài viết Các phẩm chất tâm lý của nhân cách thuộc chủ đề về Hỏi & Đáp thời gian này đang được rất nhiều bạn quan tâm đúng không nào !! Hôm nay, Hãy cùng Hlink.Vn tìm hiểu Các phẩm chất tâm lý của nhân cách trong bài viết hôm nay nhé ! Các bạn đang xem bài : “Các phẩm chất tâm lý của nhân cách”

Đánh giá về Các phẩm chất tâm lý của nhân cách


Xem nhanh
4 vai trò quan trọng này là yếu tố quyết định để trở thành một NHÀ LÃNH ĐẠO giỏi

1. HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC
2. HOẠCH ĐỊNH NGUỒN LỰC
3. ĐÁNH GIÁ TÍNH HIỆU QUẢ
4. TỔ CHỨC VÀ VẬN HÀNH CHIẾN LƯỢC

Đâu là Tâm, Tầm, Tài của nhà lãnh đạo? Tư duy dùng tiền để thực tế hóa chiến lược? Cách xây dựng hệ thống báo cáo? Tất cả có trong chương trình CEO Quản Trị 4.0 được trực tiếp Thầy Ngô Minh Tuấn đào tạo và chia sẻ. Tìm hiểu chương trình tại đây: https://bit.ly/giam_doc_dieu_hanh_vn

-------------------------------------------------
HỌC VIỆN DOANH NHÂN CEO VIỆT NAM - NƠI HỘI TỤ NHỮNG CON NGƯỜI GIÁ TRỊ, NHỮNG SẢN PHẨM GÍA TRỊ, ĐỂ LAN TOẢ GIÁ TRỊ
Học viện Doanh nhân CEO Việt Nam (tiền thân là Học viện CEO Việt Nam) trực thuộc thành viên của Tập đoàn CEO Việt Nam Holding
Sứ mệnh Học viện: Học viện Doanh nhân CEO Việt Nam ra đời với sứ mệnh “Nơi hội tụ những con người giá trị, những sản phẩm giá trị, để lan toả giá trị”
Tầm nhìn: Chúng tôi luôn cố gắng để trở thành tổ chức được yêu thích nhất Việt Nam.
Giá trị cốt lõi của chúng tôi:
1. Suy nghĩ phải TRUNG THỰC
2. Hành động phải GIÁ TRỊ
3. Ứng xử phải CHÂN THÀNH
Triết lý vận hành: Lợi mình - lợi người - lợi chúng sinh
Học viện Doanh nhân CEO Việt Nam là một trong những đơn vị tiên phong cung cấp những chương trình huấn luyện cho các doanh nhân trong và ngoài nước về các vấn đề trong quá trình xây dựng, vận hành và phát triển doanh nghiệp.
Tại Học viện Doanh nhân CEO Việt Nam, các chương trình được sử dụng xuyên suốt cùng 3 triết lý đào tạo “Cơ chế khoán toàn diện - Quản trị mục tiêu - Sử dụng nhân tài” và chuyển giao những bộ công cụ hỗ trợ và vận dụng cho chủ doanh nghiệp và các Giám đốc chức năng.
Hàng ngàn doanh nhân được đào tạo, hàng trăm doanh nghiệp được tư vấn và đem lại những hiệu quả bất ngờ cho Chủ doanh nghiệp trong suốt 5 năm qua, Học viện Doanh nhân CEO Việt Nam đã đóng góp lớn vào sự nghiệp phát triển doanh nghiệp cũng như chứng mình đây là nơi cung cấp giải pháp hỗ trợ đắc lực cho cộng đồng doanh nhân Việt Nam.
Học viện Doanh nhân CEO Việt Nam – Thay đổi doanh trí Việt!
-------------------------------------------------
Các chương trình đào tạo tại Học viện CEO Việt Nam:
Giải pháp dành cho chủ doanh nghiệp:
1. Cơ chế hình thành Tư duy : https://bit.ly/co_che_tu_duy_vn
2. CEO Quản trị - Giám đốc điều hành:https://bit.ly/giam_doc_dieu_hanh_vn
3. Chuyển hóa Tâm thức - PTP: https://bit.ly/chuyen_hoa_tam_thuc_vn
4. CEO Master - Bác sĩ doanh nghiệp: https://bit.ly/bac_si_doanh_nghiep_vn
5. Dịch vụ tư vấn doanh nghiệp: https://bit.ly/tu_van_doanh_nghiep_vn

Giải pháp dành cho giám đốc chức năng
1. CCO - Giám đốc kinh doanh: https://bit.ly/giam_doc_kinh_doanh_vn
2. CMO - Giám đốc marketing: https://bit.ly/giam_doc_marketing_vn
3. CFO - Giám đốc tài chính: https://bit.ly/giam_doc_tai_chinh_vn
4. CHRO - Giám đốc nhân sự: https://bit.ly/giam_doc_nhan_su_vn
5. CPO - Giám đốc sản xuất: https://bit.ly/giam_doc_san_xuat_vn

Giải pháp dành cho khởi nghiệp
1. CEO Beginner - Giám đốc khởi nghiệp: https://bit.ly/giam_doc_khoi_nghiep_vn
2. Xây dựng hồ sơ gọi vốn: https://bit.ly/xay_dung_ho_so_von_vn

Giải pháp dành cho quản lý cấp trung
1. Trưởng phòng Sale mô hình bán lẻ: https://bit.ly/truong_phong_sale_bl_vn
2. Trưởng phòng Sale mô hình nhà phân phối: https://bit.ly/truong_phong_sale_pp_vn

Giải pháp để cuộc sống hạnh phúc và an lạc
1. Cơ chế hình thành Tư duy: https://bit.ly/co_che_tu_duy_vn
2. Chuyển hóa tâm thức - PTP: https://bit.ly/chuyen_hoa_tam_thuc_vn
-------------------------------------------------
Kết nối với chúng tôi :
🏢HỌC VIỆN DOANH NHÂN CEO VIỆT NAM
☎️ Hotline: 1800.57.77.22 - Nhánh số 5
🌐 Website: www.ceovietnam.edu.vn
Facebook: https://www.fb.com/HocVienCEOVietNam/
Spotify: http://bit.ly/Ngominhtuanradio
Itunes: https://apple.co/31yqwre
Tiktok: https://www.tiktok.com/@ceovietnam2022

#ngominhtuan
#hocvienceovietnam

The way of kernel is quality

Lấy từ“ https://vi.kipkis.com/index.php?title=Cấu_trúc_tâm_lý_của_nhân_cách&oldid=23728 ”

1. Khái niệm nhân cách con người

Nhân cách là khái niệm chỉ bao hàm phần xã hội, tâm lí của cá nhân, đó là một con người với tư cách là một thành viên của một xã hội nhất định; là chủ thể của các quan hệ người – người, của hoạt động có ý thức và giao lưu. Hiện nay có rất nhiều lí thuyết khác nhéu về nhân cách trong khoa học tâm lí. Đó là thuyết phân tâm của S.Frued, thuyết siêu phẳng và bù trừ của A.Adler…

  • Tác phẩm, tác giả, nguồn
  • kết nối đến đây
  • có khả năng bạn muốn xem
  • 1. Khái niệm nhân cách con người
  • Nhân cách và giáo dục văn hóa nhân cách
  • Video liên quan

Các nhé̀ tâm lí học theo quan điểm của Mác –xít đều cho rằng khái niệm nhân cách phải là một phạm trù xã hội chứ không thể thuần tâm lí. mặc khác điều đó không loại trừ việc mỗi ngành khoa học tiếp cận vấn đề nhân cách theo góc độ của mình, trong số đó có khoa học tâm lí. Rõ ràng là một người sẽ chỉ trờ thành nhân cách kho đã có tâm lí và ý thức. Sau đây là một số định nghĩa về nhân cách của những nhà tâm lí theo quan điểm Mác – xít được sử dụng rộng rãi:

“Nhân cách là một cá nhân có ý thức, chiếm một vị trí nhất định trong xã hội và đang thực hiện một vai trò nhất định.” – A.G.Goovaliôp

“Nhân cách là con người với tư cách là kẻ mang toàn bộ thuộc tính và phẩm chất tâm lí đang quy định những hình thức hoạt động và những hành vi có ý nghĩa xã hội” – E.V.Sôrôkhôva

Mặc dù có các định nghĩa khác nhéu như trên nhưng các nhé̀ tâm lí học Mác – xít đề thống nhất với nhéu ở quan điểm: “Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của một cá nhân biểu hiện ở bản sắc và giá trị xã hội của người ấy.”

Nói thuộc tính tâm lý là nói hiện tượng tâm lý tương đối ổn định – kể cả phần sống động và phần tiềm tàng (nét, thói, tính tình,,,) có tính quy luật chứ không phải xuất hiện một cách ngẫu nhiên.

Xem thêm: Tâm lý học phát triển là gì? Các lý thuyết theo tâm lý học phát triển?

Dùng chữ “tổ hợp” có nghĩa là những thuộc tính tâm lý hợp thành nhân cách có quan hệ chặt chẽ với nhéu, tác động lẫn nhau làm thành một hệ thống, một cấu trúc nhất định. Cũng một thuộc tính đó, nằm trong thuộc tính khác cũng trở nên khác đi.

Nói “bản sắc” là muốn nói trong số những thuộc tính đó, trong hệ thống đó có cái chung từ xã hội, từ giai cấp, tập thể gia đình vào con người nhưng cái chung này (gọi tắt là kinh nghiệm – xã hội – lịch sử) đã trở thành cái riêng, cái khác biệt của từng người có đặc điểm về nội dung và cả về hình thức, không giống với các tổ hợp khác của bât cứ một người nào khác.

Dùng chữ “giá trị xã hội” là muốn nói những thuộc tính đó thể hiện ra ở những việc làm, những cách ứng xử, hành vi, hành động, hoạt động phổ biến của người ấy và được xã hội đánh giá.

✅ Mọi người cũng xem : từ đồng nghĩa với từ học tập là gì

Nhân cách và giáo dục văn hóa nhân cách

Vấn đề nhân cách và giáo dục văn hoá nhân cách phải được nhìn nhận là điểm cốt lõi nhất, là chỗ sâu sắc và tinh tế nhất của triết lý giáo dục.

1. Một con người đạt tới sự trưởng thành xã hội phải là một con người có nhân cách.

Nhân cách là nhân cách của từng người, trong tính cá thể sinh động của nó, trong sự tự biểu hiện và tự khẳng định chặt lượng phát triển người của nó với tư cách một cá nhân, một chủ thể mang nhân cách. Đây là sự phát triển đặc trưng của cái riêng, của từng cái riêng một trong mối liên lạc mật thiết về bản chất với cái chung. Mỗi cái riêng đó là một con người cá thể, cá nhân mà nhân cách của nó phản ánh nhân cách xã hội, là sản phẩm của sự phát triển xã hội trong những điều kiện lịch sử nhất định. Mỗi một cái Tôi nhân cách đều đặn mang dấu ấn của nhân cách xã hội, chịu ảnh hưởng và ảnh hưởng của hoàn cảnh xã hội, điều kiện sống, truyền thống lịch sử, văn hoá cũng như trình độ và tính chất phát triển của xã hội đương thời. Cái chung của nhân cách xã hội chi phối nhân cách cá nhân thông qua hệ tổng giá trị và chuẩn mực của nó, biểu hiện thành thế giới quan và nhân sinh quan, thành tư tưởng và đạo đức, tình cảm và niềm tin, thành hành vi trong hoạt động và ứng xử của con người trong cộng đồng xã hội. Vì vậy, mỗi cá nhân mang cái tôi nhân cách như một hình ảnh thu nhỏ của nhân cách xã hội. Đời sống hiện thực, hàng ngày của nó diễn ra trong môi trường xã hội, giữa những người khác, trong công việc, trong giao tiếp và ứng xử. Môi trường xã hội, vận hành của con người và những quan hệ xã hội của nó là những nhân tố trực tiếp nhất tham gia vào sự hình thành và thực hiện nhân cách của mỗi cá nhân. Tính hiện thực này của nhân cách xác định hình thức biểu hiện của nhân cách ở lẽ sống, lối sống và nếp sống. Lẽ sống biểu đạt một quan niệm sống, một thái độ lựa chọn và định hướng tổng giá trị đời sống của bản thân, chứa đựng trong đó cả mục đích, động cơ, nhu cầu và lý tưởng xã hội mà cá nhân hướng tới. Nó đo lường trình độ trưởng thành xã hội của cá nhân về mặt nhận thức, lý trí, tình cảm… ý thức và tự ý thức về mình – cải tạo thành bản ngã, hay ý thức về cái tôi cá thể và chủ thể, trước hết được định hình ở lẽ sống. Nó như một triết lý về con người và cuộc sống.

Hồ Chí Minh khái quát triết lý ấy trên hai phương diện của cùng một vấn đề: Sống ở đời và Làm người. Làm người và sống ở đời thì phải chính tâm và thân dân. Với những con lớp trẻ tuổi mới bước vào đời, lập thân và lập nghiệp, lẽ sống là cả một vấn đề hệ trọng của cuộc đời. Xã hội, trước hết là gia đình, nhà trường, các bậc cha mẹ, các nhà giáo dục và những thế hệ đi trước phải giúp đỡ thế hệ trẻ tự mình tìm thấy câu trả lời đúng và tôi, tôi và đẹp về lẽ sống. Đây thực sự là một định hướng mang ý nghĩa sâu xa về văn hoá, về văn hoá nhân cách.

Xác định đúng đắn về lẽ sống đối với một con người là điểm tựa tinh thần đầu tiên để con người phát triển thành một nhân cách với nghĩa là biết sống lương thiện, tử tế, có trách nhiệm với chính mình và xã hội.

2. Một năm khởi đầu từ mùa xuân.

Cuộc đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Giáo dục lẽ sống phải bắt đầu từ những năm tháng còn trẻ, còn rất trẻ của cuộc đời. Khoảng thời gian đó là cơ hội thuận lợi nhất đối với nhà giáo dục để giáo dục lẽ sống đối với các công dân tương lai khi mà những va đập của cuộc đời chưa làm cho họ tập nhiễm phải những cái xấu, cái ác, khi mà sự trong sáng của tâm hồn và tình cảm của họ làm cho họ dễ tiếp thụ những tổng giá trị đạo đức, dễ nảy nở nhưng khát vọng trở nên tôn đẹp thông qua những phương thức giáo dục biểu cảm, truyền cảm bởi văn hoá nghệ thuật và những tấm gương sống động về người thực, việc thực ở đời. Có lẽ sống đúng, có lý tưởng sống cao thượng, con người được đặt vào một chiều hướng phát triển tích cực về nhân cách, tức là một có khả năng nảy nở và hoàn thiện nhân tính, cái mà nhà giáo dục lỗi lạc xô viết trước đây, Xukhômlinxki gọi là “khả năng dễ giáo dục”.

Cũng do đó, sự sai lệch chuẩn mực xã hội về lẽ sống, tức là những lệch lạc về quan niệm sống ở những lớp trẻ tuổi là một trở ngại căn bản để hình thành nhân cách của họ, đặt họ trước nguy cơ hư hỏng, có khi hỏng cả một cuộc đời. Trong trường hợp này, giáo dục vấp phải không ít những nhọc nhằn, nan giải, mà nếu nhà giáo dục không đủ tài năng, bản lĩnh, cao hơn nữa là không đủ sức mạnh của lòng nhân ái, của tấm lòng và trái tim nhân hậu thì thất bại trong giáo dục nhân cách đối với tuổi trẻ là khó tránh khỏi.

Nếu lẽ sống là tiếng nói lý trí của nhân cách con người thì lối sống là bước chuyển hoá cực kỳ quan trọng từ ý thức lựa chọn mẫu nhân cách của cá nhân, của nhóm và tập thể đến thực hành nhân cách trong cuộc sống hàng ngày, trong cuộc đời của họ. Trong một lối sống đã hình thành, đã định hình, những cái ổn định và có chiều hướng trở nên bền vững thuộc về ý thức, tâm lý, tập tính và nhu cầu, lý trí và tình cảm, nhận thức hành động… như những thuộc tính và phẩm chất cá nhân được bộc lộ ra. Tính hiện thực của nhân cách được thể hiện trong lối sống. Nó như một tập hợp các giá trị, được khảo nghiệm và chứng thực trong vận hành và hành vi của con người, trong các mối quan hệ con người với nhéu, trong những tác động qua lại giữa nhân cách này với nhân cách khác. Xây dựng lối sống và cuộc sống văn hoá tinh thần là tạo ra môi trường văn hoá theo các chuẩn mực tổng giá trị về đạo đức, khoa học, thẩm mỹ để hình thành văn hoá nhân cách của cá nhân cũng như tập thể. Lối sống vừa phản ánh nhân cách vừa đánh giá nhân cách của cá nhân mỗi người.

Văn hoá nhân cách của cá nhân biểu hiện trình độ phát triển nhân cách của cá nhân đó ở mức độ điển hình, trong đó những thuộc tính giá trị của nhân cách đã trở nên ổn định, bền vững. Ý thức về cái đúng (chân), cái tốt (thiện), cái đẹp (mỹ) đã gắn liền với năng lực thực hành lối sống theo những tổng giá trị đó. Nó trở thành xu hướng chủ đạo dẫn dắt cá nhân tới những vận hành chủ động, tích cực, sáng tạo, tới những hành vi giao tiếp và ứng xử với những người xung quanh một cách có văn hoá, đặc biệt là văn hoá đạo đức. Đó là những nét đẹp thuộc về tư tưởng, tâm hồn, tính cách như sự trung thực, lòng chân thành, tính vị tha, bao dung, sự ân cần chu đáo với con người, thái độ tôn trọng nhân cách con người và coi trọng đạo lý làm người.

Tóm lại, văn hoá nhân cách biểu hiện trình độ phát triển nhân cách thông qua lối sống có văn hoá, là cái đã trở thành lối sống văn hoá, thành chất lượng văn hoá lối sống của cá nhân. Đây là mục tiêu cần đạt tới của giáo dục văn hoá nhân cách đối với con người, nhất là đối với thế hệ trẻ. Người đạt đến văn hoá lối sống và văn hoá nhân cách là người không chỉ đạt đến trình độ phát triển của tiềm lực, của đạo đức và các tổng giá trị, các chuẩn mực xã hội khác của nhân cách, mà còn đạt tới sự phát triển về nhu cầu – những nhu cầu bên

trong thuộc về đời sống văn hoá tinh thần của mình, tự khẳng định mình về tư tưởng, đạo đức, lối sống theo các chuẩn mực tổng giá trị Chân – Thiện – Mỹ.

Người có văn hoá lối sống và văn hoá nhân cách là người có sự phát triển bền vững của văn hoá đạo đức. Văn hoá đạo đức là nền tảng và tổng giá trị cốt lõi nhất tạo nên đặc trưng điển hình và bao trùm cho một nhân cách đã chín muồi.

3. Trong khi nhấn mạnh cả hai mặt đức và tài của nhân cách, Hồ Chí Minh vẫn coi đức là gốc, là quyết định, là hàng đầu chính là do đó.

Theo quan niệm đó, người được coi là có nhân cách, trước hết là người có đạo đức, được đánh giá về đạo đức bởi những người khác, bởi dư luận xã hội. Sự đánh giá này tập trung vào lối sống của con người, trong quan hệ với công việc, với những người xung quanh, với cả bản thân mình từ thái độ đến hành vi, ứng xử. Tính ích kỷ, sự vụ lợi mà rộng hơn là cá nhân chủ nghĩa xa lạ với những gì thuộc về nhân cách con người cả trên bình diện đạo đức lẫn bình diện văn hoá. Sống đúng, sống tốt và sống đẹp giữa mọi người, không phải vì mình mà vì người khác, coi lối sống, cách sống đó như một mong muốn, một sự thoả mãn đạo đức và văn hoá làm người – đó là thước đo giá trị nhân cách trong lối sống. Người mang lối sống ấy sẽ biểu hiện nhân cách của mình bằng cách làm việc hết mình, tận tuy thực hiện bổn phận, nghĩa vụ, nhất quán giữa lời nói là việc làm – những cái mà ta thường nói, sống có tâm, có tình, có nghĩa. Với cái tâm đó, người ta mới biết đem cái tài ra để giúp ích cho đời, cho người. Vị tha là nét cao quý, đáng nể trọng của đạo làm người. Không nhân ái thì không thể vị tha được. cũng như vậy, không có lòng vị tha thì không thể khiêm nhường, thành thật, bao dung, độ lượng với người và nghiêm khắc với mình được. Phải có những phẩm chất ấy, con người ta mới có khả năng đem vào trong nếp sống hàng ngày của mình những biểu hiện của sự quan tâm, ân cần, chu đáo với người khác, tính cẩn thận, nề nếp, tận tâm, tận lực trong mọi công việc lớn, nhỏ vì người khác. Đó là sự hy sinh, sự quên mình, chỉ với một tình cảm thiết tha được sống vì người khác, được góp phần nhỏ bé của mình vào sự lớn rộng thêm những niềm vui và hạnh phúc cho người khác, làm vợi đi những khó khăn, vất vả làm dịu đi những nỗi buồn, những đau khổ của người khác, tương đương làm được ngày một thường xuyên hơn những điều, những việc hữu ích cho cuộc đời.

Là sự chi tiết hoá lối sống, củng cố sự bền vững những tổng giá trị và chuẩn mực của văn hoá lối sống, nếp sống thường ngày của mỗi cá nhân như những chỉ báo xác thực để đo lường mức độ trưởng thành cũng như xu hướng phát triển nhân cách của cá nhân đó. Với những biểu hiện của nếp sống, con người tự bộc lộ mình là người như thế nào, là một nhân cách như thế nào. Qua nếp sống của một con người chi tiết, có khả năng đánh giá được người ấy đã tự giáo dục mình đến đâu, đã chuyển hoá học vấn thành văn hoá nhân cách của mình đến mức nào.

Từ những điều trình bày trên đây, cần nhấn mạnh rằng, nhân cách và văn hoá, nhân cách liên quan trên toàn bộ chất lượng phát triển con người tác động và có sức chi phối sâu xa đến cuộc sống của con người với sự toàn vẹn của chỉnh thể cá nhân, cá thể của nó cũng như sự tác động qua lại giữa nó với những cá nhân, cá thể khác với cộng đồng xã hội mà nó là một phần tử hợp thành, không thể tách rời.

4. Con người mang một bản chất xã hội nhất định; bản chất ấy có cơ sở vật chất – sinh học của nó, bởi con người trước hết là một thực thể sinh vật. Nhân cách của nó không tách rời mà trái lại gắn liền với những cội rễ của di truyền sinh vật mà nó thừa hưởng từ những thế hệ trước để lại. Song, trong sự hình thành bản chất xã hội của từng cá thể, cá nhân thì tính ưu trội và vai trò quyết liệt lại thuộc về cơ sở xã hội – lịch sử và văn hoá, thuộc về thực thể xã hội. Con người mang bản chất xã hội và hình thành nhân cách của mình tư sự tổng hoà các quan hệ xã hội, từ hoàn cảnh xã hội mà trong đó nó tồn tại, nó thực hiện hoạt động sống của mình. Mác đã vạch ra những luận đề nổi tiếng về những đặc trưng xã hội và qui luật xã hội ảnh hưởng tới sự hình thành bản chất người, nhân cách người. Đó là:

  • Nếu con người là sản phẩm của hoàn cảnh thì vấn đề là ở chỗ, phải tạo ra hoàn cảnh có tính người. Đó là nhân tính, là những sức mạnh (lực lượng) bản chất người của con người. Đó là con đường phát triển theo chiều hướng nhân đạo hoá hoàn cảnh để hình thành nên nhân cách người.
  • Hoàn cảnh tạo ra con người trong chừng mực mà con người ảnh hưởng cải biến trở lại đối với hoàn cảnh. Con vật là một tồn tại bản năng trong khi con người là một thực thể xã hội có hoạt động sống sáng tạo dựa trên tiền đề tồn tại.
  • Sự đa dạng của mỗi cá nhân tuỳ thuộc vào sự đa dạng của những mối liên lạc, những quan hệ xã hội của nó. Con người trở thành thực thể và chủ thể xã hội bằng hoạt động của nó từ cá thể đến loài, từ bản chất loài, tộc loại tiến đến bản chất xã hội. Đó là cả lịch sử của nó – lịch sử sáng tạo ra một tự nhiên thứ hai như là sáng tạo ra tác phẩm nghệ thuật của chính mình. Con người sáng tạo ra xã hội con người theo qui luật của cái đẹp. Đó là cái đẹp của văn hoá, của nhân tính.

Điều đó chứng tỏ rằng, con người sáng tạo ra văn hoá và văn hoá sáng tạo ra con người ở phương diện làm cho con người hoàn thiện, con người mang nhân cách văn hoá mà trong hình thái lý tưởng của nó là sự hài hoà Chân – Thiện – Mỹ. Đây là một tổng hoà các giá trị Nhân bản (thuộc phạm trù khoa học), Nhân đạo (thuộc phạm trù đạo đức) và Nhân văn (thuộc phạm trù văn hoá). Văn hoá thống nhất trong bản thân nó khoa học và đạo đức.. Nhân văn bao hàm trong nó những tổng giá trị nhân bản và nhân đạo. Đạt đến trình độ phát triển nhân văn là đạt đến văn hoá, đạt đến nhưng thành quả sáng tạo của con người và loài người nhằm thoát mỹ hoá hiện thực.

5. Nhân cách là toàn bộ các giá trị mà con người đạt được trong sự trưởng thành xã hội của nó. Những tổng giá trị đó gắn liền với những chức năng và vị thế của con người trong các quan hệ xã hội mà nó biểu hiện ra bằng vận hành, với tất cả sự phong phú và toàn vẹn của đời sống cá nhân trong môi trường xã hội, trong sự phát triển của cá nhân và xã hội.

Đạo đức tương đương tiềm lực là những thành phần chủ yếu của cấu trúc nhân cách, nhưng chỉ riêng đạo đức hay tiềm lực không đủ để xác định một nhân cách. Nói đạo đức là yếu tố quan trọng hàng đầu là gốc, là cái quyết định của nhân cách không có nghĩa là đồng nhất đạo đức với nhân cách, coi nhân cách chỉ là đạo đức. Cần phải khắc phục một quan niệm đơn giản khi lược quy nhân cách vào mặt duy nhất là đạo đức, cũng như đồng nhất học vấn với văn hoá như vẫn thường thấy khi đánh giá sự phát triển của cá nhân về mặt học vấn, học thức. mặt khác, nếu tách rời đạo đức với tiềm lực, tuyệt đối hoá đạo đức mà xem nhẹ tiềm lực, hoặc cho rằng dường như những Giảm, yếu kém, thiết hụt về tiềm lực có thể được bù trừ, châm chước bằng phẩm chất đạo đức, thì đó sẽ là một quan niệm không đúng về nhân cách. Ngược lại, đề cao tiềm lực đến mức coi tiềm lực là tất cả, chỉ cần rèn luyện năng lực để làm việc, còn đạo đức không có vai trò quyết liệt… thì quan niệm đó càng sai lệch nhiều hơn. Đó là những biểu hiện khác nhau của cách hiểu phiến diện, siêu hình về nhân cách.

Trên thực tế, đạo đức chi phối và quyết liệt tiềm lực, cùng lúc ấy đạo đức phải biểu hiện qua tiềm lực, ở tác dụng và hiệu quả của tiềm lực trong hoạt động.

Đạo đức và năng lực phải được hình dung chi tiết trong công việc và trong các quan hệ mà con người phải giải quyết và ứng xử hàng ngày, tức là trong những tình huống khác nhéu của cuộc sống. Thông qua những công việc và quan hệ đó, con người tỏ rõ mình đã làm được những gì, đã sống như thế nào giữa những người khác, nhờ đó mà nhân cách cá nhân của nó được định bơm và cũng có thể tự đánh giá. Phải thông qua những đánh giá xã hội thì nhân cách cá nhân mới có tính hiện thực. Tính hiện thực đó biểu hiện ở tác động và uy tín mà người này có được ở người khác, trong những người khác và ngược lại.

Mỗi cá nhân là một chủ thể mang nhân cách của mình, đồng thời là đối tượng; khách thể được đánh giá về nhân cách bởi một chả thể khác, bởi cộng đồng xã hội.

6. Nhân cách của mỗi cá nhân được hình thành trong các mối LH xã hội, trong các quan hệ liên nhân cách. Điều đó được thể hiện trước tiên trong giao tiếp văn hoá.

Giao tiếp văn hoá để học cách sống, cách ứng xử văn hoá, tập luyện hành vi, thói quen tốt cho từng cá nhân theo những chuẩn mực và tổng giá trị của văn hoá giao tiếp, văn hoá đối thoại, tranh luận, văn hoá ứng xử. Làm cho từng cá nhân nảy nở và phát triển nhu cầu văn hoá trên những phương diện đó chính là con đường giáo dục văn hoá nhân cách cho họ.

Cảm nhận một cách tinh tế yêu cầu lý, Nêru, nhà hoạt động văn hoá lỗi lạc Ấn Độ nhấn mạnh rằng, “Văn hoá chính là có khả năng hiểu biết người khác và làm cho người khác hiểu mình”. Còn viện sĩ Lik- hachốp coi “Văn hoá là biết lắng nghe” và Xukhômlinxki, nhà giáo dục xô viết nổi tiếng, người đã dồn hết tâm huyết và tinh lực cả đời mình cho công việc giáo dục thế hệ trẻ, với tác phẩm vĩ đại “Giáo dục con người chân chính như thế nào?” lại đặc biệt chú ý tới phẩm chất làm người thông qua giáo dục văn hoá nhân cách. Ông quan niệm “Văn hoá chính là khả năng biết nhìn thấy người bên cạnh”.

Biết lắng nghe, ấy là sự khiêm nhường, là sự tôn trọng con người. Biết nhìn thấy người khác, ấy là sự ân cần, chu đáo, sự thông cảm, chia xẻ với những số phận con người – một biểu hiện cao quí của nhân tính. Mác đã từng nói: chỉ có súc vật mới quay lưng lại với nỗi thống khổ của đồng tính. Mác đã từng nói: chỉ nói có súc vật mới quay lưng lại với nỗi thống khổ của đồng loại.

Tập luyện, gieo trồng, vun trồng nhân tính là gốc rễ bền bỉ nhất của văn hoá. Nhân tính đó, chính là chiều sâu của sự hiểu biết, sự đồng cảm của con người với con người. Đó cũng là nhu cầu văn hoá đạo đức của mỗi cá nhân trong lao động, hoạt động, trong gian tiếp, ứng xử với những người khác.

Những thuộc tính giá trị cộng đồng và cộng cảm ấy của văn hoá làm người, văn hoá nhân cách tỏ rõ rằng, nhân cách con người không bao giờ độc lập, biệt lập trong cái trạng thái cô đơn, ốc đảo khép kín ở một cá thế. Nó là sự giao hoà giữa nhân cách của nó với những nhân cách ngoài nó, của những con người, những cuộc đời và của cả cộng đồng xã hội nói chung. Nhân cách là một quan hệ liên nhân cách chính là vì vậy.

Sự phối hợp đồng bộ các lực lượng giáo dục cũng như sự thống nhất giữa mục tiêu và phương pháp giáo dục trở nên hết sức rất cần thiết. Nó tạo ra những ảnh hưởng tích cực cùng chiều tới sự hình thành nhân cách của thế hệ trẻ. Muốn vậy, phải khai thác tối đa sức mạnh của giáo đục truyền, thống lịch sử dân tộc, truyền thống cách mạng; kết hợp giáo dục khoa học để rèn luyện phương pháp tư duy sáng tạo và phát triển trí tuệ với giáo dục đạo đức và trau dồi sự tinh tế trong cảm thụ nghệ thuật, cải thiện khiếu thẩm mỹ để làm đa dạng thế giới tinh thần của họ. Đó là những lực đẩy rất cần thiết giúp con người phát triển và hoàn thiện nhân cách. Nó còn rất cần thiết để thức tỉnh những người đã bị lệch lạc về nhân cách, thậm chí đánh mất nhân cách của mình mà trong hoàn cảnh và ở thời điểm nào đó, họ có khả năng hoàn lương và hướng thiện.

Vấn đề nhân cách và giáo dục văn hoá nhân cách phải được nhìn nhận là điểm cốt lõi nhất, là chỗ sâu sắc và tinh tế nhất của triết lý giáo dục.

Hoàng Chí Bảo

Phó giáo sư, tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh-Tạp chí Triết học

T.L.H

✅ Mọi người cũng xem : xá lợi tử là gì

Tác phẩm, tác giả, nguồn

  • Tác phẩm: Giáo trình Tâm lý học đại cương
  • Tác giả: Nguyễn Xuân Thức (Chủ biên) – Nguyễn Quang Uẩn – Nguyễn Văn Thạc – Trần Quốc Thành – Hoàng Anh – Lê Thị Bừng – Vũ Kim Thanh – Nguyễn Kim Quý – Nguyễn Thị Huệ – Nguyễn Đức Sơn
  • Nguồn: Nhà Xuất bản Đại học Sư Phạm, 2007
  • vận hành nhận thức
  • Tình cảm và ý chí
  • Nhân cách và sự hình thành nhân cách
  • Giáo trình Tâm lý học đại cương
  • Hành động tự động hoá
  • Nhân cách và sự hình thành nhân cách/Câu hỏi ôn tập và bài tập
  • Phân loại trí nhớ
  • Ý chí/Câu hỏi ôn tập và bài tập
  • Giáo trình Tâm lý học đại cương/Tài liệu tham khảo
  • Trí nhớ/Câu hỏi ôn tập và bài tập
Read more …

liên kết đến đây

  • Nhân cách và sự hình thành nhân cách

có khả năng bạn muốn xem

“Like” us to know more!

Knowledge is power

Tải thêm tài liệu liên quan đến bài viết Các phẩm chất tâm lý của nhân cách

]]>

Mẹo Hay Cách



Các câu hỏi về phẩm chất tâm lý là gì


Nếu có bắt kỳ câu hỏi thắc mắt nào vê phẩm chất tâm lý là gì hãy cho chúng mình biết nhé, mõi thắt mắt hay góp ý của các bạn sẽ giúp mình cải thiện hơn trong các bài sau nhé

Bài viết liên quan

Quá trình liền vết thương diễn ra thế nào?
Tiểu Thương Là Gì? Tầm ảnh Hưởng Của Tiểu Thương đến Nền Kinh Tế
Thương lục có độc, đừng nhầm lẫn với Nhân sâm – YouMed

Chuyên mục: Hỏi Đáp

Bài viết trước « Nghĩa Của Từ Tâm Hồn Là Gì ? Nghĩa Của Từ Tâm Hồn Trong Tiếng Việt – Thánh chiến 3D
Bài viết sau Hiểu Hơn Về Chữ Tâm Trong Cuộc Sống Từ Xưa Tới Nay – Đồ Gỗ Minh Toàn »

Reader Interactions

Trả lời Hủy

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Sidebar chính

Sự thật về yêu quái khiến Tôn Ngộ Không “bó tay”, Phật Tổ “dè chừng”

12 tác dụng của tinh trùng cho sức khỏe, làn da và mái tóc – MarryBaby

Cùng học tiếng LaTinh với uTalk

13 sự thật về tinh dịch và tinh trùng: Thành phần, khối lượng

Hồ Tinh Bột Là Gì – Hồ Tinh Bột Gồm Những Gì

Kinh nghiệm dùng dầu dưỡng tóc hiệu quả và top 14 sản phẩm tốt

Tinh dầu hồi: Công dụng tuyệt vời đối với sức khỏe và đời sống

Recent Posts

  • Quá trình liền vết thương diễn ra thế nào?
  • Tiểu Thương Là Gì? Tầm ảnh Hưởng Của Tiểu Thương đến Nền Kinh Tế
  • Thương lục có độc, đừng nhầm lẫn với Nhân sâm – YouMed
  • Đặt câu với từ yêu nước thương nòi
  • Khi con tim bị tổn thương

Recent Comments

Không có bình luận nào để hiển thị.

Bản quyền © 2023 thuộc về HLink.Vn * Kênh Thông Tin Tổng Hợp Chính Thống