Bài viết Cạnh tranh hoàn hảo, cạnh tranh không
hoàn hảo và độc quyền – Dân Kinh Tế thuộc chủ đề về Wiki How thời gian này đang được
rất nhiều bạn quan tâm đúng không nào !! Hôm nay, Hãy cùng HLink tìm hiểu Cạnh tranh hoàn hảo, cạnh
tranh không hoàn hảo và độc quyền – Dân Kinh Tế trong bài viết hôm
nay nhé ! Các bạn đang xem bài : “Cạnh tranh hoàn hảo,
cạnh tranh không hoàn hảo và độc quyền – Dân Kinh Tế”
Đánh giá về Cạnh tranh hoàn hảo, cạnh tranh không hoàn hảo và độc quyền – Dân Kinh Tế
Căn cứ vào tính chất mức độ biểu hiện, cạnh tranh được chia thành cạnh tranh hoàn hảo, cạnh tranh không hoàn hảo và độc quyền.
a. Biên tập hoàn toàn
Cạnh tranh hoàn hảo là cách thức cạnh tranh mà ở đó người mua và người bán đều không có thể tác động đến giá cả của danh mục trên thị trường. Trong hình thái thị trường cạnh tranh hoàn hảo, giá cả của sản phẩm hoàn toàn do quan hệ cung cầu, quy luật giá trị quyết liệt; không có sự tồn tại của bất cứ khả năng hay quyền lực nào có thể chi phối các quan hệ trên thị trường.
Phân tích các yếu tố của thị trường, các nhà kinh tế học cho rằng, cạnh tranh hoàn hảo sẽ chỉ tồn tại khi có đủ 5 điều kiện sau đây:
Một, số lượng doanh Doanh nghiệp tham gia thị trường và số lượng khách hàng rất lớn, đủ để không một ai trong số họ có khả năng ảnh hưởng đến thị trường. do đó, thị phần của các Doanh nghiệp và khả năng tiêu sử dụng của khách hàng là không lớn; Hai, sản phẩm tham gia thị trường phải đồng nhất, vì sự dị biệt trong sản phẩm là đối tượng của thị trường nên mức độ khác biệt giữa các danh mục tương tự có khả năng tạo ra quyền lực cho từng Doanh nghiệp ở mức độ nhất định;
Ba, thông tin trên thị trường là hoàn hảo. “Thông tin hoàn hảo là việc những người tham gia thị trường trong một nền kinh tế cạnh tranh nhận biết được đầy đủ và thấy trước được giá cả hiện nay và tương lai tương đương vị trí của hàng hoá và dịch vụ” (David W. Pearce, sđd, tr 780.) . Một khi thông tin thị trường được coi là hoàn hảo thì cả người mua và người bán đều không có cơ hội để lừa dối nhau nhằm nâng giá hay ép giá sản phẩm;
Bốn, không có sự tồn tại của các rào cản gia nhập thị trường, điều này có nghĩa là một thị trường cạnh tranh hoàn hảo luôn tồn tại sự tự do gia nhập của các doanh nghiệp tiềm năng. Dưới những phân tích của kinh tế học, tự do gia nhập được hiểu là các
Doanh nghiệp hoặc các nhà đầu tư “có thể và sẽ gia nhập vào thị trường nếu như họ quan sát thấy các Doanh nghiệp khác đang kiếm được lợi nhuận thường xuyên hơn lợi nhuận bình thường. tác động của sự gia nhập tự do này sẽ làm cho đường cầu của mỗi Doanh nghiệp có chiều hướng đi xuống cho đến khi mỗi công ty chỉ kiếm được lợi nhuận bình thường, tại thời điểm mà không còn sự kích thích nào cho công ty muốn gia nhập” (David W. Pearce, sđd, tr 779);
Năm, các yếu tố đầu vào của quy trình sản xuất được lưu thông tự do và các Doanh nghiệp đều đặn có cơ hội như nhéu trong việc tiếp cận với những yếu tố trên. Các yếu tố đầu vào như nguyên vật liệu, lao động… đều đặn có thể ảnh hưởng đến năng lực buôn bán và quyết định một phần vị trí của nhà buôn bán trên thị trường, bởi lẽ nếu như một người có thể chi phối nguồn nguyên liệu đầu vào trong một ngành sản xuất, chắc chắn họ cũng sẽ khống chế sự vận động của các quan hệ sản xuất trên thị trường đó. Vì vậy, khó khăn về sự cân bằng của các yêu tố đầu vào đảm bảo cho Doanh nghiệp có vị thế ngang nhéu và cơ hội ngang nhau trong việc triển khai các chiến lược kinh doanh.
Nhìn chung, những điều kiện để có cạnh tranh hoàn hảo là những tiêu chí nhằm gọt bỏ mọi nguy cơ hình thành các thế mạnh trên thị trường, đảm bảo không một ai (cả người bán lẫn người mua) có thể chi phối thị trường. Với mô hình thị trường cạnh tranh hoàn hảo, các nhà kinh tế học xem khả năng của cạnh tranh ảnh hưởng đến sự hoạt động các quan hệ thị trường trong trạng thái tĩnh. Nói cách khác, cạnh tranh hoàn hảo là hình thức cạnh tranh mang tính lý thuyết dựa trên những điều kiện giả định của các nhà khoa học, mà không tồn tại trên thực tế. Sự vận động của các yếu tố trên thị trường như vốn, nguyên liệu, lao động và thị phần, kết hợp với bản tính hay thay đổi ngay của người tiêu sử dụng đã làm cho thị trường không thể cùng lúc ấy tồn tại đủ các khó khăn nói trên. Các danh mục sẽ không thể đồng nhất trước sự phong phú và đa dạng của mong muốn tiêu sử dụng trong xã hội, ngay cả với những mặt hàng đồng nhất do tự nhiên mà có như đường ăn, muối… cũng đang có chiều hướng đa dạng hóa. ngoài ra, sự mở rộng không ngừng của khái niệm thị trường sản phẩm lẫn thị trường địa lý làm cho có khả năng hoàn hảo về thông tin là không thể xảy ra. Sự vận động không ngừng của thị trường đã phủ nhận khả năng tồn tại của một loại thị trường tĩnh theo kiểu lý thuyết về cạnh tranh hoàn hảo.
b. Cạnh tranh không hoàn hảo
Cạnh tranh không hoàn hảo là hình thức cạnh tranh chiếm ưu thế trong các ngành sản xuất mà ở đó, các công ty phân phối hoặc sản xuất có đủ sức mạnh và thế lực để có thể chi phối giá cả các sản phẩm của mình trên thị trường10. Theo Từ điển kinh tế học hiện đại, cạnh tranh không hoàn hảo ra đời do sự khuyết đi một trong những yếu tố để tạo nên sự hoàn hảo của thị trường (đã đề cập đến ở phần cạnh tranh hoàn hảo). Trong thực tế, cách thức cạnh tranh không hoàn hảo là hình thức cạnh tranh phổ biến trên thị trường, ở thường xuyên lĩnh vực, nhiều ngành của nền kinh tế. Nếu như trong cạnh tranh hoàn hảo, không có ai có đủ khả năng chi phối thị trường, thì trong cạnh tranh không hoàn hảo, do các điều kiện để sự hoàn hảo tồn tại không đầy đủ nên mỗi thành viên của thị trường đều đặn có một mức độ quyền lực nhất định đủ để tác động đến giá cả của danh mục. Tùy từng biểu hiện của cách thức cạnh tranh này mà cách thức ảnh hưởng đến giá cả sẽ là khác nhau.
Kinh tế học chia cạnh tranh không hoàn hảo thành cạnh tranh mang tính độc quyền và độc quyền nhóm:
– Cạnh tranh mang tính độc quyền
Lý thuyết về hình thức cạnh tranh mang tính độc quyền gắn liền với các công trình nghiên cứu của nhà kinh tế học người Mỹ Edward Chamberlin11 (1899-1967) và nhà kinh tế học người Anh Joan V. Robinson12 (1903-1983). Mặc dù là những nhà nghiên cứu độc lập nhưng trong các tác phẩm đã công bố, hai nhà khoa học này có nhiều quan điểm tương đồng trong việc mô tả về hiện tượng cạnh tranh mang tính độc quyền. Cạnh tranh mang tính độc quyền là hình thức cạnh tranh danh mục, mà mỗi Doanh nghiệp đều đặn có mức độ độc quyền nhất định vì họ có danh mục của riêng mình. Mặc dù các danh mục trên thị trường có thể thay thế cho nhéu, song các công ty luôn nỗ lực thực hiện cá biệt hoá sản phẩm của mình13. Sự thành công trong việc dị biệt hoá sản phẩm phù hợp với sự đa dạng và tính hay thay đổi của nhu cầu thị trường quyết liệt mức độ độc quyền và thành công của Doanh nghiệp. Các tiêu chí được sử dụng để cá biệt hoá sản phẩm thường là mẫu mã, chất lượng, nhãn mác, dịch vụ bán hàng,…. Chúng ta có khả năng tìm thấy sự hiện diện của cạnh tranh mang tính độc quyền trong thị trường của các ngành như hoá mỹ phẩm, may mặc, ôtô…
– Độc quyền nhóm
Trong độc quyền nhóm, hình thức cạnh tranh được tồn tại trong một số ngành chỉ có một vài ít nhà sản xuất và mỗi nhà sản xuất đều đặn nhận thức được rằng giá cả của mình không những phụ thuộc vào năng suất của chính mình mà còn phụ thuộc vào hoạt động của các đối thủ cạnh tranh quan trong trong ngành đó14. Ở mô hình độc quyền nhóm, người ta không cần quan tâm đến tính thuần nhất của danh mục mà nhấn mạnh đến số lượng thành viên của thị trường, đặc thù công nghệ của một số ngành sản xuất đòi hỏi quy mô tối thiểu có hiệu qủa lớn đến mức không phải ai cũng có thể đáp ứng. Chỉ một số lượng nhỏ Doanh nghiệp với năng lực tài chính và có khả năng về công nghệ có khả năng tham gia đầu tư, ví dụ như sản xuất ôtô, cao su, thép, xi măng.v.v. Khi đó, sự thay đổi ngay về giá của mỗi công ty sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến mong muốn đối với sản phẩm của công ty khác và ngược lại. ngoài ra, việc thay đổi sản lượng của công ty sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quan hệ cung cầu của danh mục và tác động đến sự thay đổi của giá cả sản phẩm.
c. Độc quyền
Độc quyền tồn tại khi chỉ có một Doanh nghiệp duy nhất sản xuất hoặc tiêu thụ danh mục trên thị trường mà không có sự thay thế từ các sản phẩm hoặc các chủ thể kinh doanh khác. Khi có vị trí độc quyền, thị trường sẽ trao cho công ty quyền lực của mình, “khả năng tác động đến giá cả thị trường của một loại hàng hoá, sản phẩm nhất định” (David W. Pearce, sđd, tr 682). Như vậy, độc quyền là một ngôn từ để chỉ việc một Doanh nghiệp nào đó duy nhất tồn tại trên thị trường mà không có đối thủ cạnh tranh. công ty độc quyền có thể độc quyền nguồn cung (độc quyền bán) hoặc độc quyền cầu (độc quyền mua) trên thị trường. Cả hai trường hợp độc quyền này đều đặn mang lại cho công ty độc quyền khả năng khống chế ý chí của đối tác hoặc của khách hàng, tước bỏ có khả năng lựa chọn của khách hàng, buộc họ chỉ còn một cơ may duy nhất là được giao dịch với Doanh nghiệp độc quyền. Khi ấy, sự chi phối của Doanh nghiệp độc quyền đến giá cả và những điều kiện thương mại khác dễ xảy ra.
Những nguyên nhân dẫn đến sự hình thành độc quyền bao gồm những loại sau đây:
– Độc quyền hình thành từ quá trình cạnh tranh. Với tư cách là kết quả của quy trình cạnh tranh, độc quyền được tạo ra bởi sự tích tụ dần theo cơ chế lợi nhuận và các nguồn lực thị trường cứ tích tụ dần vào Doanh nghiệp đã chiến thắng. Cứ như thế, sự bồi đắp về nguồn lực qua thời gian cho Doanh nghiệp chiến thắng và sự ra đi của những công ty thất bại đã hình thành nên thế lực độc quyền;
– Độc quyền hình thành từ bắt buộc của công nghệ sản xuất hoặc bắt buộc về quy mô tối thiểu của ngành kinh tế kỹ thuật. Theo đó, trong những ngành kinh tế nhất định chỉ có những nhà đầu tư nhất định đáp ứng được yêu cầu về công nghệ hoặc về số vốn đầu tư tối thiểu mới có thể đầu tư buôn bán có hiệu quả. Những khó khăn về công nghệ, về vốn tối thiểu đã loại bỏ dần những người chưa có khả năng, dẫn đến việc chỉ có một nhà đầu tư nào đó có khả năng phục vụ được những khó khăn đó và thị trường đã trao cho người đủ khó khăn vị trí độc quyền. Trong đời sống kinh tế hiện đại, có thể tìm thấy những ngành có các yêu cầu công nghệ cao và vốn lớn như chế tạo máy bay, du lịch không gian.
– Độc quyền hình thành từ sự tồn tại của các rào cản trên thị trường (barrier). Các rào cản đó bao gồm sự bảo hộ của Nhà nước (bao gồm bảo hộ bằng các quyết định hành chính cho các công ty Nhà nước và bảo hộ các đối tượng thuộc sở hữu công nghiệp); sự trung thành của khách hàng; rào cản do lợi thế chi phí tuyệt đối của công ty đang tồn tại, đã làm cản trở sự gia nhập thị trường của các nhà buôn bán mới, từ đó củng cố và bảo vệ vị trí độc quyền của Doanh nghiệp hiện đang tồn tại;
– Độc quyền do sự tích tụ tập trung kinh tế. Tập trung kinh tế diễn ra thông qua việc sáp nhập, hợp nhất hoặc mua lại, liên doanh và những cách thức khác (ví dụ như việc kiêm nhiệm vị trí lãnh đạo trong thường xuyên công ty), việc mua lại công ty có khả năng hiểu là mua lại toàn bộ một công ty hoặc mua một lượng một cách đáng kể cổ phiếu của công ty khác để có khả năng kiểm soát nó.
Sự tồn tại của công ty độc quyền có khả năng tập trung mọi nguồn lực thị trường để đầu tư hoặc phát triển thống kê công nghệ, triển khai thực hiện những dự áp đầu tư đòi hỏi vốn lớn. Rất thường xuyên thành tựu kinh tế và khoa học kỹ thuật của nhân loại trong thế kỷ XXI đã được thực hiện dưới sự tài trợ của các công ty hoặc các tập đoàn độc quyền.
mặc khác, sự xuất hiện của độc quyền trong đời sống kinh tế sẽ triệt tiêu cạnh tranh, có khả năng gây ra những thiệt hại khó lường trước như:
– Người tiêu dùng rất dễ bị bóc lột bởi việc Doanh nghiệp độc quyền đặt ra các mức giá phi cạnh tranh (còn gọi là mức giá bóc lột);
– Độc quyền có khả năng là nguyên nhân gây ra lãng phí cho xã hội bằng các chi phí mà công ty bỏ ra để củng cố hoặc duy trì độc quyền bằng mọi giá;
– Độc quyền có khả năng bóp méo chi phí sản xuất. công ty độc quyền ít chịu sức ép cạnh tranh so với các công ty cạnh tranh. Vì vậy nên sức ép hạn chế chi phí đối với Doanh nghiệp độc quyền cũng thấp hơn nhiều so với công ty phải tồn tại trong môi trường cạnh tranh. Với cùng một loại hàng hoá sản xuất và cùng một lượng hàng hoá cung cấp cho người tiêu dùng, Doanh nghiệp độc quyền thường có chi phí cao hơn so với công ty hoạt động trong thị trường cạnh tranh;
– Độc quyền tạo ra sức ỳ cho bản thân công ty độc quyền. Vì không phải chịu các sức ép từ cạnh tranh, nên các Doanh nghiệp độc quyền không có động lực cải tiến kỹ thuật, cắt Giảm chi phí và đầu tư phát triển công nghệ… được bao bọc bởi hiệu quả kinh tế không từ có khả năng kinh doanh mà từ vị trí độc quyền có thể khiến cho Doanh nghiệp tự bằng lòng với những gì họ đang có. Những điều nói trên tạo ra sức ỳ nhất định cho công ty. Những diễn biến xảy ra đối với các Doanh nghiệp độc quyền của Việt Nam trong thường xuyên ngành là ví dụ điển hình.
Các từ khóa trọng tâm hoặc các ngôn từ liên quan đến bài viết trên:Các câu hỏi về thị trường cạnh tranh không hoàn hảo là gì
Nếu có bắt kỳ câu hỏi thắc mắt nào vê thị trường cạnh tranh không hoàn hảo là gì hãy cho chúng mình biết nhé, mõi thắt mắt hay góp ý của các bạn sẽ giúp mình cải thiện hơn trong các bài sau nhé
Trả lời