Bài viết Khái niệm thiết bị dạy học là gì thuộc
chủ đề về Wiki How thời
gian này đang được rất nhiều bạn quan tâm đúng không nào !! Hôm
nay, Hãy cùng Hlink.Vn tìm hiểu
Khái niệm thiết bị dạy học là gì trong bài viết hôm nay nhé ! Các
bạn đang xem nội dung : “Khái niệm thiết bị dạy học là
gì”
Đánh giá về Khái niệm thiết bị dạy học là gì
Xem nhanh
Thầy cô muốn tham dự khóa học này bấm vào link bên dưới:
https://tbdhs.buiduyphuong.com/
#thietbidayhocso
#proteacherarmy
#buiduyphuong
Hãy bấm vào link bên dưới Đăng kí kênh để nhận video mới nhất :
https://www.youtube.com/channel/UC-y3zSkLJWdwWyfZa8GP23g?sub_confirmation=1
----------------------------------
Người hướng dẫn:
►Teacher: Bùi Duy Phương
►Tel: 0977.669.623
►Website: https://proteacherarmy.edu.vn/
►Website: https://proteacherarmy.com/
►Website: https://buiduyphuong.com/
►Facebook: https://www.facebook.com/buiduyphuong1
► Like Fanpage: https://www.facebook.com/teacherduyphuong
1. Mối quan hệ của TBDH với các yếu tố của quy trình dạy học
Trong sơđồ mô tả các yếu tố (thành phần) của quy trình dạy học,
Chúng ta thấy nếu xét về phương diện nhận thức thì thiết bị dạy và học vừa là trực quan sinh động, vừa là phương thuận tiện để nhận thức và đôi khi còn là đối tượng chứa nội dung cần nhận thức.
thống kê về vai trò của thiết bị dạy và học, người ta còn dựa trên vai trò của các giác quan trong quá trình nhận thức vàđã cho thấy:
– Tỉ lệ kiến thức thu nhận được qua các giác quan theo tỉ lệ: 1% qua nếm, 1,5% qua sờ; 3,5% qua ngửi, 11% qua nghe, 83% qua nhìn.
– Tỉ lệ kiến thức nhớ được khi học: 20% qua những gì mà ta nghe được; 30% qua những gì mà ta nhìn được; 50% qua những gì mà ta nghe và nhìn được; 80% qua những gì mà ta nói được; 90% qua những gì mà ta nói và làm được.
– Người ta cũng tổng kết: tôi nghe tôi quên; tôi nhìn tôi nhớ; tôi làm tôi hiểu.
Những số liệu trên cho thấy, để quy trình nhận thức đạt hiệu quả cao cần phải thông qua quá trình nghe nhìn và thực hành. Muốn vậy, phải có phương tiện (thiết bị, công cụ) để tác động và hỗ trợ.
2.một vài vai trò của thiết bị dạy và học
– Cung cấp kiến thức cho HS một cách chắc chắn, chính xác và trực quan; Vì vậy hấp dẫn và kích thích được hứng thú học tập của HS.
– Rút ngắn thời gian giảng dạy mà vẫn bảođảm HS lĩnh hộiđủ nội dung học tập.
-Gia tăng cườngđộ laođộng của cả GV và HS; Vì vậy nâng cao hiệu quả dạy học.
-Thể hiện được những yếu tố trong thực tế khó hoặc không quan sát, tiếp cận được.
3. Các giá trị giáo dục của thiết bị dạy và học
– đẩy nhanh sự giao tiếp, trao đổi thông tin, do đó giúp HS học tập có hiệu quả.
– Giúp HS tăng cường trí nhớ, làm cho việc học tập được lâu bền.
– Cung cấp thêm kiến thức, kinh nghiệm trực tiếp liên quan đến thực tiễn xã hội và môi trường sống.
– Giúp khắc phục những Giảm của lớp học bằng cách biến cái không thể tiếp cận được thành cái có thể tiếp cận được. Điều này thực sự đúng khi thực hiện phim ảnh mô phỏng và các phương thuận tiện tương tự.
– Cung cấp kiến thức chung, qua đó HS có khả năng phát triển các hoạt động học tập khác nhéu.
– Giúp phát triển mối quan tâm về các lĩnh vực học tập và khuyến khích HS tham gia chủ động vào quá trình học tập.
4. yêu cầuđối với thiết bị dạy và học
Trên cơ sở phân tích thực trạng các thiết bị dạy và học ở trường phổ thông, người tađã bổ sung các tiêu chí đánh giá đối với các thiết bị dạy học chi tiết đó là:
– Phù hợp với nội dung chương trình, sách giáo khoa và phương pháp dạy học mới;
– Dễ sử dụng, tốn ít thời gian trên lớp;
– Kích thước, màu sắc phù hợp;
-Đảm bảo an toàn trong vận chuyển, bảo quản, dùng;
– Có tài liệu hướng dẫn chi tiết bằng tiếng việt.
5. bắt buộc về mặt sư phạm khi sử dụng thiết bị dạy và học
Trên cơ sở phân tích các nguyên tắc dùng thiết bị dạy và học, những sai sót thường gặp trong dùng thiết bị dạy và học, người ta cũng rút ra những kết luận sư phạm sau:
5.1. sử dụng thiết bị dạy và học phù hợp với người học
Phải dùng kết hợp nhiều loại thiết bị dạy và học một cách có hệ thống để vừa thực hiện được các đặc trưng của đối tượng nhận thức vừa phù hợp với các phong cách học tập khác nhau của người học.
Cách học (phong cách học) là cách ảnh hưởng của chủ thể đến đối tượng học hay cách thực hiện vận hành học; là hình thức thông thường một người nhận vàxử lý thông tin, đưa ra quyết định và tạo ra các tổng giá trị. Phong cách của người đọc thể hiện qua hành vi của người đó.
Cách học (hay phong cách học) là tập hợp các yếu tố về mặt sinh lí, tính cách, tình cảm và nhận thức; là những chỉ số tương đối ổn định chỉ rõ một người học cảm nhận, tácđộng và ứngđáp lại môi trường học tập.
Đương nhiên, không có cách học duy nhất cho mọi người, mọi nội dung (đối tương/ môn học). do đó, cần:
+ Hướng dẫn một cách có chủ ý về các cách đáp ứng nhu cầu học đa dạng (lời nói/ ngôn ngữ; logic/ toán học; nhìn/ không gian; thân thể/vận động; nhạc/ nghe; giữa các cá nhân với nhéu/ trong mỗi người); nghĩa là phải sử dụng nhiều phương pháp, kĩ thuật dạy học khác nhau. Trong đó đặc biệt chú ý kết hợp các dạng vận hành nghe, nhìn và làm. Có những phương pháp (cách thức) dạy học có khả năng kết hợp được. Chẳng hạn, dạy theo dự án. Những dự án học tập thường đòi hỏi người học phải tiếp cận đề tài bằng phong phú kĩ năng: khẩu ngữ, trực quan và xúc cảm. Nó cũng tạo điều kiện cho sinh viên tham gia đóng góp, dùng phong cách học tập theo thiên hướng của mình và trải nghiệm các phong cách học tập khác. Người học có phong cách năng hoạt có thể tham gia một cách có hiệu quả thông qua sự chủ động và nhiệt tình nêu ra các ý tưởng của mình; người học có thiên hướng thực tế sẽ giúp kết hợp các bằng chứng về những kinh nghiệm/ kiến thức trước đó để hợp nhất chúng vào trong dự án.
5.2. dùng thiết bị dạy và học phù hợp với nội dung học tập
Khi lựa chọn các thiết bị dạy và học, phải thống kê kĩ năng đặc điểm nội dung học tập, ưu (nhược) điểm của từng loại phương thuận tiện để thực hiện cho đồng bộ. Muốn vậy, khi thiết kế bài dạy (soạn giáo án), cần phải:
– Đề ra kết quả mong đợi (mục tiêu bài học) chongười học để dễ kiểm soát trực tiếp.
– Thiết kế các hoạt động dạy và học phù hợp với kiến thức đã có, với động lực và mức độ quan tâm của HS bằng cách lựa chọn nội dung và phương pháp dạy học để liên hệ giữa trình độ của HS với mức độ nội dung mà các em kì vọng phảiđạtđược.
– thường xuyên điều chỉnh kế hoạch này trên cơ sở thông tin phản hồi từ phía người học.
– Cần chú trọng tới những nội dung mang tính khái niệm, nguyện lí chung hơn là những nội dung mang tính chi tiết, vụn vặt.
5.3. dùng thiết bị dạy và họcđể tổ chức hoạtđộng học tập cho HS
sử dụng thiết bị dạy và học chủ yếu là để tổ chức các vận hành học tập của HS chứ không đơn thuần chỉ để trình chiếu thông tin hoặc minh hoạ bài dạy.
các nghiên cứu về cấu trúc tâm lí của vận hành đã khẳng định rằng, mỗi hoạt động cụ thể bao giờ cũng có động cơ đẩy nhanh vận hành ấy. hoạt động gồm các hành động, mỗi hành động đều đặn nhằm tới một mục đích nào đó. Hành động lại bao gồm các động tác, tác (tổ hợp của các cử động riềng rẽ) và nó phụ thuộc vào điều kiện, phương tiện để đạt tới mục đích định trước. Các thành phần của vận hành trí óc được gọi là thao tác (chẳng hạn phân tích, tổng hợp, so sánh,…); còncác thành phần của hoạt động vật chất, biểu hiện bên ngoàithường được gọi là động tác (ví dụ: cầm, nắm, … ).
Như vậy, cách học ở mức độ chi tiết chính là phương pháp ảnh hưởng của chủ thể đến đối tượng học (tức nội dung học), nó sẽ phụ thuộc vào điều kiện, phương thuận tiện học cụ thể. Khi tổ chức các hoạt động học tập cần chú ý:
– Các vận hành học tập cần khơi dậy tính tò mò đối vớingười học (GV cần khuyến khíchngười học đặt các câu hỏi tại sao, như thế nào và điều gì sẽ xảy ra nếu?).
– Các hoạtđộng học tập phải thiết thực và phù hợp với mức độ phát triển về xã hội và trình độ của HS.
– Các vận hành học tập phải được liên hệ với những kinh nghiệm sống hàng ngày của HS (theo đó các em sẽ hiểu được ý nghĩa của việc học).
– HS cần đạt được sự thành công và được tôn trọng nếu ta muốn các em có được thái độ tích cực đối với việc học tập.
– Cần xem xét kiến thức, kĩ năng và thái độ mà HS có được trong chính môi trường lớp học.
– Cần tính đến bối cảnh ngôn ngữ và văn hoáđa dạng của HS.
5.4. một số khó khăn chung trong việc dùng thiết bị dạy và học.
khó khăn chủ yếu trong việc dùng thiết bị dạy và học ở trường học là thiết bị dạy và học thiếu, không đồng bộ; bố trí lớp học và thời khoá biểu không thuận tiện cho việc sử dụng, khai thác, bảo quản thiết bị dạy và học; chưa có quy định yêu cầu về việc sử dụng thiết bị dạy và học…. Khắc phục điều kiện trên, về nguyên tắc là phải xây dựng được các phòng học bộ môn (phòng học riêng cho từng bộ môn hoặc liên môn, tại đó hệ thống phương thuận tiện nghe nhìn đã được lấp đặt cố định, hệ thống thiết bị dạy học được chuẩn bị sẵn sàng cùng với hệ thống bàn ghế phù hợp với đặc trưng bộ môn).
một vài vấn đề về cơ sở vật chất và thiết bị dạy học ở trường phổ thông.
1. Khái niệmHệ thống cơ sở vật chất và thiết bị dạy học
Hệ thống cơ sở vật chất (CSVC) và thiết bị dạy học(TBDH) có hai nhóm, đó là:
a) CSVC: Trường sở, đồ gỗ và các thiết bị sử dụng chung. Trường sở có: khối học tập, khối các phòng chuyên dụng (thí nghiệm, thực hành, phòng tin học, phòng truyền thống, phòng đa chức năng phục vụ văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao, phòng nghe nhìn v.v);
b) TBDH: Là những phương thuận tiện vật chất cần thiết giúp cho GV và HS tổ chức quy trình giáo dục, giáo dưỡng hợp lí, có hiệu quả các môn học ở nhà trường.
Thiết bị dạy và học bao gồm các các phương tiện mang tin, phương tiện kỹ thuật dạy học và phương thuận tiện tương ứngđược sử dụng trực tiếp trong quá trình dạy họcđể truyền tải nội dung, tương tác với phương pháp dạy học nhằmđạt mục tiêu xácđịnh.
Thiết bị dạy và học là toàn bộ sự vật, hiện tượng tham gia vào quá trình dạy học,đóng vai trò là công cụ haykhó khănđể GV và HS dùng làm khâu trung gian tácđộng vàođối tượng dạy học. Thiết bị dạy và học có chức năng khơi dậy, dẫn truyền và làm tăng sức mạnh tácđộng của người dạyđến nội dung và người học.
Nhưvậy, cần quan tâm tới các dấu hiệu sauđây của thiết bị dạy và học:
– Một vật (hay một hiện tượng) nàođóđược coi là thiết bị dạy và học khi nóđượcđặt trong mối quan hệ giữa nó vớiđối tượng dạy: nghĩa là khiđược GV hay học viên sử dụng làm công cụ haykhó khănđể hoạtđộng dạy họcđược tiến hành (đều đặn là khâu trung gian nhưng công cụ thiên về mặt tácđộng thực tế, còn phương thuận tiện thiên về mặt chức năng).
– Phương thuận tiện có chức năng khơi dậy, dẫn truyền và làm tăng sức mạnh tácđộng của GV hoặc học viên lên nội dung dạy học. Dođómột phương thuận tiện chỉ trở thành thiết bị dạy và học khi GV và HS biết cách sử dụng nó; mặt khác, sẽ có sự phân biệt giữa phương thuận tiện dạy học của GV và phương thức học tập của HS trong sự quan hệ chuyển hoá lẫn nhéu.
– Yếu tố quyếtđịnh trìnhđộ hoạtđộng dạy học không phải dạy và học cái gì, mà dạy và học cáiđóbằng phương pháp và phương tiện nào? Để cải thiện hiệu quả dạy học, cần phải nâng cao tính hiệu quả dạy học, cần phải cải thiện tính hiệnđại của các thiết bị dạy và học và trìnhđộ sử dụng chúng của người dạy và người học.
c)Đa phương thuận tiện
Đa phương thuận tiện là sự tích hợp nhiều phương tiện, nhiều kênh thông tin khác nhéu mang tính hệ thống với sự tương tác đa chiều, đa liên kết, đa môi trường trong cùng một thời điểm.
Đa phương tiện là một hệ thống kỹ thuật dùngđể trình diễn các dữ liệu và thông thuận tiện, dùng đồng thời các hình thức chữ viết, âm thanh, hình ảnh, động hình (qua hệ thống computer); trong đó tạo có khả năng tương tác giữa người sử dụng và hệ thống.
Trên quan điểm công nghệ, dạy học với đa phương thuận tiện là loại hình công nghệ kép, bao gồm công nghệ về tổ chức quá trình nhận thức và công nghệ về phương tiện kĩ thuật dạy học. Hai công nghệ thành phần này phải được kết hợp với nhau theo quan điểm hệ thống, nghĩa là chúng phải tạo thành một hệ toàn vẹn trong sự tương tác

d)Sơ đồ hệ thống CSVC và TBDH
2. Phân loại thiết bị dạy và học
Thiết bị dạy và học là tập hợp cácđối tượng vật chất mà người GV sử dụng với tưcách là phương tiênđiều khiển hoạtđộng nhận thức của HS; cònđối với HS,đólà các nguồn tri thức, là phương thuận tiện giúp HS lĩnh hội nội dung dạy học, hình thành kĩ năng. Nói cách khác, thiết bị dạy học là hệ thốngđối tượng vật chất, phương tiện kĩ thuậtđược GV và HS sử dụng trong quy trình dạy học.
Người ta thường phân ra:
– Thiết bị dạy và học truyền thống, là những phương tiện đã được sử dụng từ xưa tới nay trong dạy học; ví dụ bảng viết, tranh vẽ, mô hình
– Thiết bị dạy và học hiện đại, là những thiết bị dạy và học mới được đưa vào nhà trường; ví dụ các sản phẩm công nghệ điện tử viễn thông như camera số, máy chiếu đa phương tiện
Những thiết bị dạy và học thường dùng trong dạy học ở trường THPT phổ thông là:
+ Hình vẽ (tranh giáo khoa, hình vẽ trên bảng của GV);
+ Mô hình vật chất (tĩnh vàđộng);
+ Vật thật (dụng cụ, đồ sử dụng, cụ thể máy, các máy móc, thiết bị kĩ thuật trong dạy thực hành,);
+ Các phương tiện kĩ thuật dạy học (máy chiếu bản trong, máy chiếu vật thể, máy vi tính, ti vi và đầu video/VCD/DVD, máy chiếu đa phương tiện,).
3. sử dụng TBDH để cải thiện chất lượng giáo dục và kĩ năng thực hiện các PPGD tích cực.
3.1. Vì sao phải dùng TBDH để cải thiện chất lượng giáo dục và kĩ năng thực hiện các PPGD tích cực
quá trình dạy học cấu thành bởi nhiều yếu tố có liên quan chặt chẽ và tương tác nhéu. Các thành tố cơ bản của quá trình giáo dục là: Mục tiêu nội dung phương pháp Kiểm tra, đáng giá- GV – HS HTDH- PTDH
Các yếu tố cơ bản này tạo thành quy trình sư phạm hẹp. Nếu kể đến các yếu tố khác như khó khăn tự nhiên, xã hội, văn hoá Đó là quá trình sư phạm rộng đầy đủ thành tố hơn. Trong phạm vi tư liệu, chúng ta chỉ chủ yếu nói đến quy trình sư phạm hẹp và hệ thống cơ sở vật chất và TBDH phục vụ cho quá trình này.
Theo sơ đồtrênta thấy các cặp thành tố có quan hệ tương hỗ hai chiều. Cả quá trình có nhiều mối quan hệ và việc điều khiển tối ưu quá trình này có thể được coi là nghệ thuật về mặt sưphạm TBDH có mặt trong quy trình nêu trên có vai trò tương đương với các thành tố khác và không thể thiếu một thành tố nào.
Lý luận dạy họcđãkhẳngđịnh quy trình dạy học là một quá trình trongđóhoạtđộng dạy và hoạtđộng học là những hoạtđộng khăng khít giữa cácđối tượng xácđịnh và có mụcđích nhấtđịnh.
Để quá trình dạy học có chất lượng và hiệu quả cao, con ngườiđãtìm ra và sử dụng nhiều phương pháp khác nhau cho mụcđích này và theođóTBDH phục vụ cho phương pháp dạy học cũng rađời và phát triển.
Đứng về mặt nội dung và phương pháp dạy học thì TBDH đóng vai trò hỗ trợ tích cực. Vì có TBDH tốt thì mới có thể tổ chứcđược quy trình dạy học khoa học,đưa người học tham gia thực sự vào quá trình này, tự khai thác và tiếp nhận tri thức dưới sự hướng dẫn của người dạy. TBDH phảiđủ và phù hợp mới triển khaiđược các phương pháp dạy học một cách hiệu quả. mặc khác,đứng trên một gócđộ khác thì TBDH còn là bộ phận không thể thiếuđược của nội dung và PPGD.
TBDH là các sản phẩm khoa học kỹ thuật có chức năng xácđịnh và mang tính mụcđích sưphạm rất cao, chúng chứađựng một tiềm năng tri thức to lớncùng lúc ấyđóng vai trò làđối tượng nhận thức (ví dụ: kính hiển vi khi sử dụngđể quan sát thì nó là công cụ. Phương tiện học sử dụngđể quan sát các vật nhỏ vượt quá có khả năng quan sát của mắt thường, nhưng trong môn quang học thì kính hiển vi lại làđối tượng cầnđược người học nhận thức về mặt cấu tạo và các quy luật quanghọc. TBDH là bộ phận của nội dung và phương pháp, chúng có khả năng vừa là phương tiệnđể nhận thức, vừa làđối tượng chứa nội dung cần nhận thức.
Ngoài mối quan hệ với mục tiêu, nội dung, phương pháp, TBDH còn có quan hệ chặt chẽ với các yếu tố GV- người tổ chức,điều khiển và HS – chủ thể tựđiều khiển của quy trình dạy học tạo nên vùng hợp tác sinhđộng giữa những người tham gia quy trình sưphạm với các yếu tố khác của quy trình dạy và học.
Việc dạy học theo cách truyền thụ một chiềuđang dần được thay bằng cách dạy học coi người học là trung tâm của quy trình nhận thức. Hướngđổi mới tích cực nàyđãdựa trên một vài thayđối cơbản có liên quan chặt chẽđến TBDH:
– Người họcđược chủđộng hơn trong công việc,được tham gia tích cực vào quá trình học tập.
– Người họcđược tổ chức hoạt dộngđược làm nhiều hơn thông qua việclàmđómà chiếm lĩnh tri thức.
Khi ta dùng thuật ngữ đổi mới phương pháp dạy học. Cái cầnđổi mới chỉ là cách thức,khó khăn, công nghệ mới nhằm thực hiện phương phápđãcó mà thôi (VD: có khả năng thực hiện các phương pháp thực nghiệm cốđiển bằng công nghệ rất hiệnđại nhưtia sáng thường trong thí nghiệm quang học cổđiểnđược thay bằng tia Laser…).Nhưvậy, TBDH góp phần cải thiện chất lượng của các phương pháp dạy họcđãcó.
Xuất phát từ đặc trưng tư duy hình ảnh, tư duy chi tiết của con người, trong quá trình dạy và học, sự trực quan đóng vai trò quan trọng đối với việc lĩnh hội kiến thức của người học, đặc biệt quan trọng là kênh nhìn. Không ít nội dung học tập phức tạp cần đến sự hỗ trợ tích cực của phương tiện trực quan mới giải quyết được: định luật, hiện tượng trừu tựơng trong khoa học tự nhiên, trong kỹ thuật chuyên ngành, tin học v.v HS rất cần được trực tiếp làm thực nghiệm, được lắp rắp: thao tác, quan sát, nhận xét bằng việc sử dụng các dụng cô, phương tiện cô thể. Nghĩa là học bằng hành.
Để học tập khoa học theo phương pháp được khám phá, chứng minh kiến thức, thể hiện tường minh phương pháp nghiên cứu và kỹ năng thì các phương thuận tiện, dụng cụ phòng thí nghiệm phòng thực hành có vai trò và tiềm năng to lớn.
bắt buộc trực quan cao trong việc quan sát, trình diễn hoạt động của cơ chế, cấu trúc, vận động, mô hình, mô phỏng: các phương tiện Nghe – nhìn cóưu thế rõ nét.
3.2.Vai trò của các TBDH trong việc nâng cao có khả năng sưphạm
Thực hiện các PPGD trực quan, thực nghiệm, tạo những vùng hợp tác giữa GV và HS, tạo ra khả năng thực hành, củng cố kiến thức, rèn luyện kỹ năng làm việc, học tập, sự khéo léo chân tay, bồi dưỡng có khả năng tự học, tự chiếm lĩnh tri thức, tạo ra sự hứng thú, lôi cuốn khi học, tiết kiệm thời gian trên lớp, cải tiến các hình thức laođộng SP, tạo khả năng tổ chức một cách khoa học vàđiều khiển hoạtđộng dạy học.
3.3.Nhữngđiểm cần chú ý khi xây dựng, lựa chọn, dùng TBDH
– Phù hợpđối tượng: phải xem xétđặcđiểm và có khả năng nhận thức của HS, khi tổ chức và thiết kế cơsở hạ tầng trường học, lựa chọn các mẫu TBDH, lựa chọn nguyên vật liệu cho công tác giảng dạy học tập.
– Tính khoa học: là mứcđộ chuẩn xác trong việc phản ánh hiện thực.
– Tính sưphạm: Là sự phù hợp với yêu cầu về mặt sưphạm nhưđộ rõ, kích thước, màu sắc, dễ dùng, phù hợp với tâm sinh lý HS.
– Tính kinh tế: Là giá thành tương xứng với hiệu quả giáo dụcđào tạo.
TBDH cũngđượcđánh giá theo một vài tiêu chuẩn trên.
Công thứcước lệ sauđây thể hiện sựđánh giá chung nhấtđối với thiết bị dạy học:
Hiệu quảđầu tư= Hiệu quả sưphạm / giá thành TBDH
Nhưvậy, thiết bị dạy học có thểdễ dàng hay hiệnđại nhưng qua sử dụng, nó phải cho kết quả khoa học,đảm bảo bắt buộc về mặt mỹ quan, sưphạm, an toàn và hợp lý, tương xứng với hiệu quả mà nó mang lại và không nhất thiết là những thiết bị phảiđắt tiền.
4. dùng tổng hợp các phương tiện dạy học trong đổi mới PPGD ở trường phổ thông.
4.1. Tại sao phải dùng tổng hợp các phương tiện dạy học
Bất kỳ một phương thuận tiện trực quan nào cũng chỉ mang những thông tin khoa học nhất định và có chức năng sư phạm riêng biệt. Chúng cần được bổ sung lẫn nhau để góp phần xây dựng một cách hoàn chỉnh những biểu tượng, hình ảnh, khái niệm, quy luật thích hợp của đối tượng thống kê. Lời nói của GV, câu định nghĩa trong sách giáo khoa có thể cung cấp một loại thông tin hoàn chỉnh, có hệ thống. Các vật thực, các đối tượng tự nhiên cho biết hình dáng thực, kích thước, màu sắc bề ngoài của chúng làm cho HS hiểu được những tính chất vật lý của đối tượng thống kê. Thí nghiệm cho HS hiểu được bản chất của các hiện tượng và các quá trình xảy ra trong một cách tự nhiên, trong phòng thí nghiệm hay trong sản xuất. Bảng vẽ, tranh, sơ đồ, hình vẽ có tác dụng hoạch định để nhấn mạnh những vấn đề, những điểm chủ yếu cần chú ý trong quá trình tiếp thu kiến thức. Phim ảnh giúp khám phá ra những điều không trực tiếp thấy được hoặc khó thấy trong thực tế của các sự vật và hiện tượng, xây dựng mối LH giữa vật chất và hiện tượng, phản ánh được thuộc tính của đối tượng thống kê. Phim còn có công dụng giúp cho HS tri giác được một cách liên tiếp, kế tục nhéu của một quy trình, một hành động hay hoạt động của đối tượng ở trạng thái động.
Kinh nghiệm sư phạm cho thấy rằng muốn HS nắm được đầy đủ các kiến thức khoa học về các đối tượng nghiên cứu thì trong quá trình dạy học phải dùng phối hợp một cách hợp lý các phương thuận tiện trực quan dạy học và kết hợp chặt chẽ với lời nói của GV.
4.2. Các hình thức sử dụng phối hợp các phương thuận tiện dạy học
Có nhiều dạng phối hợp khác nhau các phương tiện trực quan dạy học trong bộ đồ dùng dạy học tối ưu. Người ta thường dùng hai kiểu phối hợp sau đây trong quy trình dạy học:
a) dùng phối hợp bộ đồ dùng dạy họcđược tiến hành khi HS thu lượm các kiến thức bằng kinh nghiệm, còn phần lý thuyết thì chưa được thống kê. Trong trường hợp này, sự phối hợp được bắt đầu từ việc dùng các phương tiện dạy học giúp cho HS hình thành các biểu tượng chi tiết, sau đó đến các phương thuận tiện góp phần vào việc tư duy dựa vào các tài liệu đã tri giác và kiểm tra những kết luận ở trong thực tiễn.
Việc dùng phối hợp các phương thuận tiện này không chỉ chỉ phù hợp với chức năng của từng loại phương thuận tiện, mà còn phù hợp với việc thống kê từng đối tượng cụ thể trong mỗi quá trình sư phạm nhất định.
b) Sự phối hợp các phương tiện trực quan dạy họcđược tiến hành khi HS đã nắm được lý thuyết và thống kê những yếu tố mới trong bài thì việc sử dụng theo tiến trình ngược lại. Tức là trước hết sử dụng các tài liệu để kích thích tư duy trừu tượng của HS, sau đó sử dụng các phương thuận tiện dạy học góp phần vào chứng minh những kết luận rút ra đến việc hình thành các biểu tượng chi tiết.
4.3. Những điều cần chú ý khi sử dụng phối hợp phương tiện trực quan
a) Khi sử dụng các phương tiện trực quan, không chỉ chỉ sử dụng mọi khả năng thích hợp nhất của mỗi loại mà còn phải kết hợp chặt chẽ giữa việc quan sát các hình ảnh của sự vật với việc quan sát các quy trình, các hiện tượng của sự vật (với thí nghiệm hoá học, GV bắt buộc HS quan sát không những các hiện tượng xảy ra, mà còn cả quá trình, cả diễn biến của các phản ứng hoá học). Qua việc kết hợp các sự quan sát đó, đồng thời kết hợp với lời hướng dẫn của GV trong khi biểu diễn đã thúc đẩy sự phát triển tư duy trừu tượng và sáng tạo cho HS.
b) Để tập trung chú ý vào những vấn đề bản chất nhất của bài học,cần phải lựa chọn các phương thuận tiện nào thích hợp nhất, có công dụng mạnh nhất đối với bài học đó. Những phương thuận tiện đó phải diễn tả nội dung chính của bài học. Phải sử dụng đúng lúc, đúng chỗ, đúng liều lượng mỗi loại phương thuận tiện.
c) nghiên cứu, xây dựng, chế tạo và trang bịbộ phương tiện dạy học tối ưu phục vụ cho từng đề tài, từng mục và từng chương trình các bộ môn là khó khăn quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả của việc dùng phối hợp các phương thuận tiện dạy học.
4.4. Bộ phương thuận tiện dạy học trực quan tối ưu
a) Bộ phương tiện dạy học trực quan tối ưulà tổng hợp các vật dụng sử dụng trong việc dạy học, đáp ứng đầy đủ và thích hợp nhất với yêu cầu khoa học để nghiên cứu các vấn đề chi tiết của nội dung bài học được hoàn thiện cao về mặt kỹ thuật, có giá thành hạ; chúng góp phần làm cho GV giảng dạy một cách hấp dẫn nhất (mất ít thời gian, ít sức lực và ít phương thuận tiện nhất) làm cho HS nắm được tốt nhất những kiến thức khoa học, kỹ năng, kỹ xảo, trau dồi thế giới quan khoa học.
b) Bộ phương thuận tiện dạy học tối ưu cho mỗi bộ môn có thể bao gồm các loại sau đây
– Sách giáo khoa và các tài liệu tham khảo.
– Các vật liệu dạy học tự nhiên (vật thực, mẫu sưu tập, tiêu bản vật nhồi .v.v.) gồm 2 loại để GV biểu diễn và tài liệu phân phát cho từng HS.
– Các bộ đồ sử dụng thí nghiệm và thực hành (sử dụng cho GV và HS).
– Bộ vật liệu in: Tranh, ảnh, sơ đồ, hình vẽ, bảng.
– các loại mô hình.
– Các tài liệu nghe- nhìn: Computer nối mạng internet, các phần mềm dạy học, Đĩa CD, DVD, băng ghi âm, băng video – cassette, phim giáo khoa, phim đèn chiếu, tấm bản dương, tấm bản trong v.v…
– Các tài liệu hướng dẫn phương pháp dùng các tài liệu nói trên cho từng chương từng bài.
c) Khi chế tạo các phương tiện trong bộ đồ sử dụng dạy học tối ưucần phải đạt những bắt buộc sau:
– Nội dung các phương tiện dạy học cần phải thống nhất về mặt tư tưởng, lý luận, phù hợp với bắt buộc khoa học của chương trình từng môn học.
– Các nguyên tắc giáo dục trong từng loại phương thuận tiện phải thống nhất.
– Mỗi loại trong bộ đồ sử dụng dạy học phải được lựa chọn cẩn thận, chúng phải hỗ trợ lẫn nhau, bổ sung cho nhéu, không trùng lặp, phải đảm bảo tính chất liên tục, tính logic, hợp với quy luật nhận thức của HS.
– Sách giáo khoa phải giữ vai trò trung tâm trong bộ đồ dùng dạy học tối ưu đó.
d) Việc dùng phối hợp các phương tiện trực quan trong quy trình dạy họccó yêu cầu khách quan là các phương thuận tiện và thiết bị dạy học phải được bốtrí tập trung, luôn luôn bên cạnh người sử dụng (tận tay GV) để có thể sử dụng chúng bất kỳ lúc nào, đồng thời các phương thuận tiện và thiết bị đó phải được bảo quản một cách hấp dẫn nhất, hợp lý nhất.
e) Kinh nghiệm sư phạmthường xuyên năm của nhiều nước đã chứng tỏ rằng việc giảng dạy, học tập các môn học trong các phòng học đặc biệt dành cho môn học đó gọi là Phòng bộ môn là điều kiện tốt nhất, thích hợp nhất để thực hiện việc sử dụng phối hợp đạt hiệu quả cao. mặt khác, dạy và học trong phòng bộ môn còn có nhiều tính chất ưu việt khác, đáp ứng với bắt buộc của phương pháp dạy học hiện đại.
Bổ xung
3. Vai trò của phương thuận tiện trong quá trình dạy học
1.3.1. Vai trò chung
Khoa học và công nghệ ngày càng phát triển thì phương thuận tiện dạy học cũng ngày càng trở thành yếu tố quan trọng, có ảnh hưởng lớn tới chất lượng và hiệu quả của quy trình dạy học. Đặc biệt, trong các môn học thuộc ngành khoa học tự nhiên thì có những nội dung sẽ không thể thực hiện được nếu thiếu phương thuận tiện dạy học.
Trước đây, khi đề cập tới các thành tố của quá trình dạy học thường chỉ chú trọng tới 3 thành phần là mục đích, nội dung và phương pháp dạy học. Ngày nay, do sự phát triển về chất, quy trình dạy học được xác định gồm 6 thành tố là: mục đích (hẹp hơn là mục tiêu), nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học, cách thức tổ chức dạy học và kiểm tra đánh giá. Các thành tố này có quan hệ tương tác hai chiều lẫn nhau (Hình 1.1)
học
Hình 1.1: Mối quan hệ giữa các thành tố của quá trình dạy học
Trong sơ đồ trên, nếu xét về phương diện nhận thức thì phương thuận tiện dạy học vừa là cái để học sinh trực quan sinh động, vừa là phương thuận tiện để giúp quá trình nhận thức được hiệu quả.
thống kê về vai trò của phương thuận tiện dạy học, người ta còn dựa trên vai trò của các giác quan trong quy trình nhận thức và đã chỉ ra rằng:
– Kiến thức thu nhận được qua các giác quan theo tỉ lệ: 1% qua nếm, 1,5% qua sờ; 3,5% qua ngửi, 11% qua nghe, 83% qua nhìn (Tô Xuân Giáp).
– Tỉ lệ kiến thức nhớ được sau khi học: 20% qua những gì mà ta nghe được; 30% qua những gì mà ta nhìn được; 50% qua những gì mà ta nghe và nhìn được; 80% qua những gì mà ta nói được; 90% qua những gì mà ta nói và làm được (Tô Xuân Giáp).
– Cũng theo Tô Xuân Giáp, ở Ấn độ, người ta cũng tổng kết: tôi nghe tôi quên; tôi nhìn tôi nhớ; tôi làm tôi hiểu.
Những số liệu trên cho thấy, để quy trình nhận thức đạt hiệu quả cao cần phải thông qua quy trình nghe nhìn và thực hành. Muốn vậy, phải có phương thuận tiện (thiết bị, công cụ) để ảnh hưởng và hỗ trợ.
1.3.2. Vai trò đối với giáo viên
– Hỗ trợ hiệu quả cho giáo viên trong quy trình tổ chức các hoạt động nhận thức cho người học bởi đảm bảo quy trình dạy học được sinh động, tiện, chính xác.
– Rút ngắn thời gian giảng dạy mà vẫn bảo đảm người học lĩnh hội đủ nội dung học tập một cách vững chắc.
– Giảm nhẹ cường độ lao động của giáo viên, Vì vậy cải thiện hiệu quả dạy học.
1.3.3. Vai trò đối với người học
– Kích thích hứng thú học tập cho người học, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình lĩnh hội kiến thức của người học.
– Giúp người học tăng cường trí nhớ, làm cho việc học tập được lâu bền.
– Là phương thuận tiện giúp người học hình thành và rèn luyện các kĩ năng, kĩ xảo cả thao tác trí tuệ lẫn thao tác vật chất. Cung cấp thêm kiến thức, kinh nghiệm trực tiếp liên quan đến thực tiễn xã hội và môi trường sống.
1.4. yêu cầu đối với phương tiện dạy học
Để thực hiện tốt vai trò của mình, phương tiện phải đáp ứng được một số bắt buộc dưới đây: – Phù hợp với nội dung chương trình, giáo trình, phương pháp dạy học mới và có khả năng lĩnh hội của người học; – Đảm bảo tính nhân trắc học; – Dễ sử dụng, đảm bảo độ tin cậy cao, chắc chắn, có độ bền cao; – Kích thước, màu sắc phù hợp; – Đảm bảo an toàn trong vận chuyển, bảo quản, dùng; – Đảm bảo tính kinh tế; – Có tài liệu hướng dẫn chi tiết.
1.5. dùng phương tiện dạy học theo hướng tích cực hóa người học
1.51. Nguyên tắc dùng phương thuận tiện dạy học
a) Đảm bảo an toàn: Đây là một nguyên tắc quan trọng khi dùng thiết bị dạy học. Các thiết bị dạy học được sử dụng phải an toàn với các giác quan của học sinh, đặc biệt khi sử dụng các thiết bị nghe nhìn. Do vậy, trong quá trình dùng, giáo viên cần chú ý một số vấn đề an toàn như: an toàn điện, an toàn cho thị giác, an toàn cho thính giác …
b) Đảm bảo nguyên tắc 3Đ: đúng lúc, đúng chỗ và đủ cường độ. – Nguyên tắc sử dụng phương tiện dạy học Đúng lúc
sử dụng đúng lúc phương thuận tiện dạy học là việc trình bày phương tiện vào lúc rất cần thiết, lúc học sinh cần được quan sát, gợi nhớ kiến thức, hình thành kĩ năng trong trạng thái tâm, sinh lí thuận lợi nhất (trước đó, GV đã dẫn dắt, gợi mở, nêu vấn đề chuẩn bị).
4
Việc sử dụng phương tiện dạy học đạt hiệu quả cao nếu được giáo viên đưa đúng thời điểm nội dung và phương pháp dạy học cần đến. Cần đưa phương tiện theo trình tự bài giảng, tránh trưng bày đồng loạt trên bàn, giá, tủ trong một tiết học tương đương biến lớp học thành một phòng trưng bày.
– Nguyên tắc sử dụng phương tiện dạy học Đúng chỗ
dùng phương thuận tiện dạy học đúng chỗ là tìm vị trí để giới thiệu phương thuận tiện trên lớp học
hợp lí nhất, giúp cho học sinh có khả năng sử dụng nhiều giác quan nhất để tiếp xúc với phương thuận tiện một cách đồng đều đặn ở mọi vị trí trong lớp học.
Vị trí trình bày phương thuận tiện phải đảm bảo các bắt buộc chung cũng như riêng của nó về chiếu sáng, thông gió và các bắt buộc kĩ thuật đặc biệt khác.
Các phương thuận tiện phải được giới thiệu ở những vị trí đảm bảo tuyệt đối an toàn cho giáo viên và học sinh trong và ngoài giờ dạy. Đồng thời phải bố trí sao cho không làm ảnh hưởng tới quá trình làm việc, học tập của các lớp khác.
Phải bố trí chỗ để phương thuận tiện dạy học tại lớp sau khi dùng để không làm phân tán tư tưởng của học sinh khi tiếp tục nghe giảng.
– Nguyên tắc sử dụng phương thuận tiện dạy học Đủ cường độ.
Từng loại phương tiện có mức độ sử dụng tại lớp khác nhéu. Nếu kéo dài việc trình diễn
hoặc sử dụng lặp lại một loại phương thuận tiện quá nhiều lần trong một buổi giảng, hiệu quả của chúng sẽ hạn chế sút. Theo số liệu của các nhà sinh lí học, nếu như một dạng hoạt động được tiếp tục trên 15 phút thì có khả năng làm việc sẽ Giảm sút rất nhanh. Nên dùng phương thuận tiện nghe nhìn trong vòng 3 đến 4 lần trong một tuần và kéo dài trong vòng 20 – 25 phút trong một tiết học.
c) Đảm bảo tính hiệu quả
Bảo đảm tính hệ thống, đồng bộ và trọn vẹn về nội dung dạy học (dùng kết hợp thường xuyên loại phương tiện dạy học một cách có hệ thống, đồng bộ và trọn vẹn; các phương tiện dạy học không mâu thuẫn, loại trừ nhau.
Phù hợp với đối tượng học sinh; với nhân trắc và tiêu chuẩn Việt Nam.
Bảo đảm sự tương tác trong hệ thống dạy học
“Nói hay chưa phải là dạy, chỉ xem chưa phải là học.
nói đến tương tác là đề cập đến sự hợp tác, cộng tác, ảnh hưởng qua lại giữa giáo viên, học
sinh với các thành tố của quy trình dạy học.
Phương thuận tiện dạy học dù có hiện đại đến đâu thì bản thân nó cũng không thể thay thế được
vai trò của giáo viên mà trước hết là phương pháp dạy học của họ. Ngược lại, phương pháp dạy học của giáo viên cũng lại chịu sự qui định của điều kiện, phương tiện dạy học chi tiết. Vì vậy, giữa các yếu tố nội dung, phương thuận tiện, phương pháp dạy học có mối quan hệ ảnh hưởng qua lại lẫn nhau và với chủ thể học tập (người học). Mối quan hệ đó chính là sự tương tác chủ yếu giữa các yếu tố của hệ thống dạy học. Sự tương tác đa chiều này tạo nên hiệu quả, chất lượng của quy trình dạy học.

Các câu hỏi về thiết bị kỹ thuật trong dạy học là gì
Nếu có bắt kỳ câu hỏi thắc mắt nào vê thiết bị kỹ thuật trong dạy học là gì hãy cho chúng mình biết nhé, mõi thắt mắt hay góp ý của các bạn sẽ giúp mình cải thiện hơn trong các bài sau nhé
Trả lời