• Trang chủ
  • Hỏi Đáp
  • Liên Hệ

HLink - Kênh Thông Tin Tổng Hợp Chính Thống

Bạn đang ở:Trang chủ / Hỏi Đáp / Tâm lý học trẻ em và giáo dục trẻ em – Tài liệu text

Tâm lý học trẻ em và giáo dục trẻ em – Tài liệu text

Tháng Mười 6, 2022 Tháng Mười 6, 2022 Chi Mỹ 0 Bình luận

Bài viết Tâm lý học trẻ em và giáo dục trẻ em – Tài liệu text thuộc chủ đề về Hỏi Đáp thời gian này đang được rất nhiều bạn quan tâm đúng không nào !! Hôm nay, Hãy cùng Hlink.Vn tìm hiểu Tâm lý học trẻ em và giáo dục trẻ em – Tài liệu text trong bài viết hôm nay nhé ! Các bạn đang xem nội dung về : “Tâm lý học trẻ em và giáo dục trẻ em – Tài liệu text”

Đánh giá về Tâm lý học trẻ em và giáo dục trẻ em – Tài liệu text


Xem nhanh
78. Tâm lý học trẻ em
Tác giả: TRẦN THỊ THUÝ VINH
Trường CĐSP Mẫu giáo TW3 - 2010
Người đọc: Cô Chung
Xem toàn bộ: http://www.youtube.com/watch?v=Mffb3ceRESMu0026list=PLP86Y-o3C1ECnEY-hfWfOFMAGB63UcqWX
Ebook.chm: https://docs.google.com/file/d/0B1vBPBU8byOleGdQSnpFVHlWVUU/edit?usp=docslist_api
----------------------------
Sơ lược sách:
Phần 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA TÂM LÝ HỌC TRẺ EM
Bài 1: Đối tượng, nhiệm vụ và các phương pháp nghiên cứu của tâm lý học trẻ em. Khái niệm về sự phát triển tâm lý của trẻ em
Bài 2: Những quy luật cơ bản của sự phát triển tâm lý trẻ em
Phần 2: ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CỦA TRẺ TỪ 0 -- 3 TUỔI
Bài 1: Đặc điểm phát triển tâm lý của trẻ hài nhi (0 - 12/15 tháng)
Bài 2: Đặc điểm phát triển tâm lý của trẻ ấu nhi (1 - 3 tuổi)
Phần 3: ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ VÀ NHÂN CÁCH CỦA TRẺ MẪU GIÁO (3 - 6 TUỔI)
Chương 1: Các dạng hoạt động của trẻ mẫu giáo
Chương 2: Sự phát triển trí tuệ của trẻ mẫu giáo
Bài 1: Đặc điểm phát triển cảm giác và tri giác cảu trẻ mẫu giáo
Bài 2: Đặc điểm phát triển chú ý của trẻ mẫu giáo
Bài 3: Đặc điểm phát triển trí nhớ của trẻ mẫu giáo
Bài 4: Đặc điểm phát triển tưởng tượng của trẻ mẫu giáo
Bài 5: Đặc điểm phát triển tư duy của trẻ mẫu giáo
Bài 6: Sự phát triển tình cảm của trẻ mẫu giáo
Chương 3: Sự phát triển nhân cách cảu trẻ mẫu giáo
Bài 7: Sự phát triển các động cơ hành vi và sự hình thành tự ý thức của trẻ mẫu giáo
Chương 4: Chuẩn bị tâm lý cho trẻ vào học ở trường phổ thông
Phần 4: ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC (TỪ 6 - 11 TUỔI)
-----------------------------
Kho sách nói dành cho người mù
http://www.facebook.com/AudioBooksForBlind
http://www.youtube.com/user/AudioBooksForBlind

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và download full full document at here (1.47 MB, 229 page)

5PHẦN 1NỘI DUNG 1: QUY LUẬT PHÁT TRIỂN TÂM LÝCỦA TRẺ EM

A. , KIẾN THỨC CƠ BẢN BẢN HỌC VIÊN CẦN NĂNG LỰC1. Sự phát triển tâm lý của trẻ emPhần này có 02 nội dung: Nguyên lý phát triển và Trẻ em là gì? 2. Những điều luật phát triển tâm lý của trẻ emPhần này bao gồm 5 nội dung chính: – Ảnh hưởng của nền văn hóa đối với sự phát triển của trẻ emSự phát triển như một quá trình trẻ em lĩnh hội kinh nghiệm loàingười trong văn hóa nền ; vai trò của nền văn hóa xã hội với sự phát triểntâm của trẻ em; đặc biệt vai trò của văn hóa gia đình đối với trẻ em ở tâm trí non.- Ảnh hưởng của hoạt động đối với sự phát triển của trẻ em. cơ chế nhập tâm nên sự phát triển của tâm trí trẻ; tính chất hoạt động quy định tính chất của sự phát triển tâm; hoạt động chủ đạo.- Ảnh hưởng của điều kiện sinh học đối với sự phát triển của tâm trí trẻ Điều kiện và vai trò của tác động sinh học.- Ảnh hưởng của giáo dục đối với sự phát triển của trẻGiáo dục là gì? tác động của giáo dục đến sự phát triển của tâm trí trẻ.- Tính không đồng đều đặn của sự phát triển3. Thời kỳ phân tích phát triển tâm theo tuổiB. GỢI Ý TRẢ LỜI MỘT SỐ CÂU HỎI 1: Thế nào là sự phát triển tâm lý trẻ? Gợi ý: 1. Nguyên lý phát triển

6của sự phát triển tâm lí trẻ em. Đây chính là nguyên lí phát triển trong phạmtrù triết học, từ đó soi sáng khái niệm phát triển trong phạm trù tâm lí họctrẻ em.Nguyên lí phát triển thừa nhận mọi sự vật đều vận động không ngừng,không ngừng chuyển hóa lẫn nhéu để luôn tạo ra cái mới, chưa hề có. Cáimới này là kết quả phát triển tất yếu của quá khứ, là sự kế thừa quá khứ theophương thức phủ định. Nói cách khác, cái mới không nảy sinh từ bản thânnó, cái mới chỉ có khả năng nảy sinh bằng cách phủ định cái trước đó, để rồi tựhình thành và hoàn thiện bản thân mình trên cơ sở của chính mình.Một cái mới cùng lúc ấy cũng có một phương thức vận động mới. Nhưvậy, nguyên lí phát triển chi phối toàn bộ quá trình phát triển và trong từnggiai đoạn của nó. Nếu coi là một thể thống nhất thì tại bất cứ thời điểm nàocủa quy trình, ta cũng có một thể thống nhất hoàn chỉnh đang ở trình độ ấyvà đang phát triển.Cần đưa quan điểm phát triển này vào việc xem xét quá trình lớn lênthành người của trẻ em, trong phạm trù người. Với con người, phát triển làquá trình tự tạo ra cho mình những cái mới, lấy từ trong nền văn hóa – xãhội do các thế hệ trước tạo ra bằng chính những hoạt động của mình.Sự phát triển của trẻ em là quy trình đứa trẻ lĩnh hội kinh nghiệm xãhội – lịch sử của nhân loại bằng hoạt động của bản thân trẻ để phát triểnthành người lớn.2. Trẻ em là gì?Sinh viên cần trả lời đúng và đủ 2 quan niệm về trẻ em:- Trẻ em là một khái niệm lịch sử. Trẻ em là trẻ em, trẻ em khôngphải là người lớn thu nhỏ lại. Xã hội càng văn minh, tuổi thơ càng đượckéo dài hơn và ở một trình độ văn minh nhất định thì loại hình hoạtđộng đầu tiên của trẻ em là chơi rồi đến học tập, sau đó mới là lao động

sản xuất.- Trẻ em là một thực thể đang phát triển: “trẻ em vẫn là một thực thểđang sinh thành và tồn tại trong sự sinh thành ấy. Chính sự tồn tại trong sựsinh thành ấy tạo ra sự phát triển của chính nó” (Hồ Ngọc Đại).

7Câu 2: Văn hóa tác động như thế nào đến sự phát triển tâm lýtrẻ em?Gợi ý:- Sự phát triển như là quá trình trẻ em lĩnh hội kinh nghiệm loài ngườitrong nền văn hóaTâm lí con người và động vật luôn luôn biến đổi. tuy nhiên tính chấtvà nội dung của quy trình biến đổi trong thế giới động vật và ở con ngườikhác nhau về chất. Cơ chế chủ yếu của tâm lí động vật là sự truyền kinhnghiệm bằng con đường di truyền sinh học. Sự thích nghi cá thể đối với môitrường bên ngoài được triển khai trên cơ sở kinh nghiệm đó. Đặc điểm củacác chức năng tâm lí người là chúng được phát triển trong quy trình trẻ emlĩnh hội kinh nghiệm xã hội lịch sử được loài người ghi giữ lại trong nềnvăn hóa.Nói tới văn hóa là nói tới con người, nói tới xã hội loài người cùng vớitoàn bộ thành tựu phát triển của nó. Nói tới văn hóa là nói tới việc nhằmhoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội.tương đương mọi sinh thể khác trong vũ trụ, con người là một bộ phậncủa vũ trụ, chịu sự quy định chặt chẽ của thế giới tự nhiên. Nhưng khác vớicác sinh vật khác, “một thiên nhiên” thứ hai do chính con người tạo ra bằngbàn tay, trí óc của mình. Thiên nhiên thứ hai này chính là văn hóa, và “thiênnhiên” này nuôi dưỡng toàn bộ đời sống tinh thần của con người.- Vai trò của nền văn hóa xã hội với sự phát triển tâm lí của trẻXét quá trình hình thành lịch sử xã hội loài người thì con người là chủ

nhân sáng tạo ra toàn bộ danh mục văn hóa, những danh mục này hợp thànhthế giới văn hóa, tự nhiên. Cùng với thế giới một cách tự nhiên, văn hóa thườngxuyên tác động đến con người, nó bồi dưỡng tâm hồn, rèn luyện ý chí và tôiluyện nên nhân cách con người.Xét về quá trình phát triển của một đứa trẻ, thì ngay từ khi ra đời, trẻđã có sẵn một thế giới văn hóa của loài người, trẻ chưa phải là người sángtạo ra nó và cũng chưa thể biến đổi nó. Song nền văn hóa xã hội là nguồngốc của sự phát triển tâm lí của trẻ. Không được sống trong xã hội loàingười thì đứa trẻ không thể trở thành người. Khi sinh thành ra, đứa trẻđược

8thừa hưởng não bộ người cơ quan quan trọng nhất để phản ánh hiện thựckhách quan làm nảy sinh cái tâm lí.Văn hóa tạo nên sự phát triển liên tục của lịch sử nhân loại và lịch sửcủa mỗi dân tộc. Không bao giờ có thể cắt đứt con người với lịch sử, nêncũng không thể tách con người khỏi văn hóa, vì văn hóa cũng là bản thânlịch sử của con người, là mỗi người. Trong nền văn hóa xã hội chứa đựngtoàn bộ kinh nghiệm quý báu, những tri thức của loài người, và đó là nộidung cơ bản để phát triển trí tuệ, nhân cách cho trẻ. Hơn nữa văn hóa xã hộichứa đựng cả những chuẩn mực đạo đức, những tổng giá trị thẩm mĩ nó giúp chocon người vươn tới chân, thiện, mĩ.Trẻ nảy sinh, sự phát triển tâm lí của nó bị khống chế bởi nền văn hóamà nó tiếp xúc. Nền văn hóa xã hội, những kinh nghiệm lịch sử xã hội lànguồn gốc và nội dung của sự phát triển tâm lí. Văn hóa lạc hậu, chậm pháttriển nảy sinh những con người lạc hậu, văn hóa hiện đại sẽ sản phát sinh nhữngcon người văn minh.Như vậy, do khó khăn, hoàn cảnh kinh tế và tiến bộ xã hội khác biệtcó khả năng tạo nên trình độ phát triển khác nhau của trẻ em các dân tộc sống ở

các miền khác nhéu trên thế giới và giữa các vùng trong cùng một đất nước.Sự khác biệt giữa các nền văn hóa tạo ra sự khác biệt tâm lí giữa trẻ vớinhéu. Song ở cùng một nền văn hóa như nhau mỗi đứa trẻ cũng khác nhéu,bởi vì mỗi đứa trẻ tiếp nhận nền văn hóa ấy theo cách riêng của mình.- Vai trò đặc biệt của văn hóa gia đình đối với trẻ ở lứa tuổi mầm nonLúc mới nảy sinh, tất cả trẻ em đều được cha mẹ nuôi dưỡng trong tổấm, đến một độ tuổi nào đó mới ra hoà nhập được vào cộng đồng xã hội.Tổ ấm của trẻ em là gia đình, là môi trường văn hóa, được tạo dựngnên trên cơ sở tình thương yêu, đùm bọc lẫn nhéu của những người ruột thịttrong gia đình gọi là văn hóa gia đình.Văn hóa gia đình là một môi trường đặc biệt rất phù hợp với sự pháttriển của trẻ thơ. Trước hết vì đó là môi trường an toàn, trong đó đứa trẻ lớnlên bên cạnh những người ruột thịt, luôn được thương yêu ấp ủ ; môi trườngđó tạo nên ở trẻ cảm giác an toàn về mặt tâm lí và an toàn về mặt thể chất.Nhờ có cảm giác an toàn đó, đứa trẻ mới cảm thấy yên tâm, mới vui tươihồn nhiên, mới mạnh dạn thăm dò, thử nghiệm, tìm cách ảnh hưởng lên sự vật

9xung quanh để phát huy những có khả năng về sinh lí và tâm lí đang sinh sôinảy nở. Mất đi cái cảm giác an toàn, đứa trẻ luôn sợ hãi, dễ co mình lại,hạn chế tính tích cực năng động và nhiều rơi vào tình trạng thụ động,buồn bã.Gia đình còn là một môi trường phong phú. Trong nhà thường có ôngbà, cha mẹ, anh chị em em, tạo ra những mối quan hệ đa dạng giữa nhiều ngườiở những thế hệ và độ tuổi khác nhau. Thế giới đồ vật trong nhà, từ những đồdùng hằng ngày đến vật nuôi, cây trồng đều đặn muôn màu muôn vẻ. có khả năngnói văn hóa gia đình là môi trường an toàn và đa dạng, trong đó trẻ đượcnuôi dưỡng và dạy dỗ theo một phương thức đặc biệt. Phương thức gia đìnhkhác với phương thức nhà trường.

Phương thức ảnh hưởng của gia đình đối với trẻ em có những đặc điểmsau đây:1) Gia đình chăm sóc trẻ em bằng tình thương yêu ruột thịt.2) Người lớn trong gia đình dạy trẻ bằng giao tiếp trực tiếp và thườngxuyên với nó. Người lớn dạy trẻ nhiều ở mọi nơi, mọi lúc, trong cáctình huống của cuộc sống thực ở xung quanh. có thể nói đứa trẻ đã lớn lênvà học làm người một cách tự nhiên và nhẹ nhàng.3) Gia đình không tiến hành ảnh hưởng đồng loạt với trẻ em trong nhómhay trong tập thể, mà chăm sóc dạy dỗ từng cháu một (kể cả với các trẻ sinhđôi), phục vụ kịp thời các mong muốn phù hợp với sức khỏe và nét tâm lí riêngcủa từng cháu.4) ảnh hưởng gia đình thường bằng thường xuyên hình thức mang tính chất tíchhợp và đượm màu sắc nghệ thuật.Nhờ phương thức ảnh hưởng đặc biệt này, gia đình có ảnh hưởng tuyệtđối trong quá trình phát triển của trẻ thơ. Trẻ em đã tiếp thu văn hóa giađình một cách tự nhiên, nhẹ nhàng mà hiệu quả lại cao. Văn hóa gia đình đểlại ấn tượng sâu đậm trong tâm hồn đứa trẻ, khiến đôi khi ta tưởng như đó làbản năng thứ hai của con người.Tất nhiên, hiệu quả của giáo dục gia đình hoàn toàn phụ thuộc vào trìnhđộ văn hóa của mỗi thành viên trong gia đình mà họ đã tiếp thu được của nềnvăn hóa dân tộc và nhân loại đặc biệt là trình độ văn hóa của người mẹ.

10tuy nhiên, gia đình, nhất là gia đình cổ truyền, cũng tồn tại nhiềunhược điểm do những hạn chế mang tính lịch sử của nó. Gia đình cổ truyềnthường là một môi trường khép kín, ít có khó khăn để trẻ tiếp xúc rộng rãivới đời sống xã hội bên ngoài. Hơn nữa, những người trong gia đình, đặc

biệt là người mẹ, số đông lại ít được trang bị những kiến thức cần thiết vềkhoa học nuôi dạy trẻ, Vì vậy việc nuôi dạy trẻ trong gia đình thường mangtính chất kinh nghiệm chủ nghĩa, tính chất tùy tiện và còn không ít tập tụclạc hậu chi phối, nhất là ở nông thôn và miền núi.Câu 3: hoạt động ảnh hưởng tới sự phát triển của trẻ em như thế nào?Gợi ý:vận hành là động lực phát triển tâm lí của trẻhoạt động là phương thức ảnh hưởng qua lại giữa con người và thế giới,qua đó làm thay đổi ngay thế giới và biến đổi cả con người. cuộc sống của conngười là một dòng vận hành, chính ở đó tâm lí nhân cách con người đượchình thành và phát triển.vận hành của trẻ bao giờ cũng diễn ra trong xã hội và dưới sự hướngdẫn của người lớn để hình thành nên tâm lí của mình.Có hai loại hoạt động:- vận hành đối tượng.- hoạt động giao tiếp (hay giao tiếp).Khi nói đến hoạt động là nói đến cả hai loại vận hành: vận hành đốitượng và hoạt động giao tiếp (hay gọn hơn là giao tiếp). Trong chuỗi hoạtđộng của con người lúc này thì vận hành đối tượng nổi lên hàng đầu, lúckhác thì giao tiếp lại nổi lên hàng đầu. Chỉ thông qua vận hành và bằngtvận hành trẻ mới chuyển được những kinh nghiệm lịch sử – xã hội của loàingười thành kinh nghiệm và năng lực của bản thân để hình thành và pháttriển tâm lý.- Cơ chế nhập tâm (sự chuyển hóa từ hoạt động bên ngoài vào hoạtđộng bên trong) tạo nên sự phát triển tâm lí của trẻCơ chế nhập tâm là con đường cơ bản để thế hệ sau tiếp thu kinhnghiệm của thế hệ trước để lại. Sự nhập tâm ấy được thực hiện bắt đầu từvận hành đối tượng bên ngoài hoặc sự giao tiếp giữa cá nhân (giữa trẻ em11với người lớn). Nhờ đó, kết quả là tâm lí được hình thành trong cá thể (trẻem). Vì vậy khi nói về tâm lí thì trước hết phải nghiên cứu các hoạt động cóđối tượng bên ngoài và tiếp đó bằng sự chuyển hóa mà có hoạt động tâm lí.Theo Vưgôtxki thì hoạt động tâm lý (hoạt động bên trong) của mỗi ngườiđược xây dựng theo mẫu của hoạt động bên ngoài. vận hành bên trongđược thực hiện nhờ các phương thuận tiện trung gian là ngôn ngữ, hệ thống tínhiệu và dấu hiệu (âm thanh) và tâm lý. A. N. Lêônchiev khẳng định bằngthực nghiệm sự phụ thuộc đa dạng của tâm lý vào các cách thức hoạt độngtrên đối tượng bên ngoài theo cơ chế chuyển vào trong(nhập tâm).- Tính chất của hoạt động quy định tính chất của sự phát triển tâm líNhân cách được tạo ra bởi hoàn cảnh khách quan thông qua hoạt độngcủa cá nhân để thực hiện các quan hệ của nó với thế giới. Những đặc điểmcủa hoạt động này cũng tạo thành các quy định kiểu loại của nhân cách, vìcon người tác động đến thế giới khách quan không như nhau.”Con người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạora con người đến mức ấy” (C. Mác). Chính do đó, con người càng tích cựctác động tới thế giới khách quan bao nhiêu hay càng tích cực vận hành baonhiêu thì thế giới khách quan tác động trở lại con người càng tích cực bấynhiêu, tức là tâm lí càng phát triển đa dạng và phong phú. hoạt động củacon người càng đi sâu tìm hiểu bản chất của sự vật hiện tượng, quan hệ xungquanh mình thì con người càng hiểu sâu sắc thế giới ấy, sự phát triển tâm lícàng bền vững.- hoạt động chủ đạoCó những vận hành giữ vai trò chủ yếu trong sự phát triển, có nhữngdạng giữ vai trò phụ thuộc. Nhưng sự phát triển tâm lí phụ thuộc không phảivào những vận hành nói chung mà phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động chủđạo. ở mỗi lứa tuổi có một vận hành chủ đạo nhất định, đó là hoạt động cónhững đặc điểm sau đây:a) Là vận hành có đối tượng mới mẻ, chưa hề có trước đó. Chính đốitượng mới này tạo ra những cái mới (hay những cấu tạo mới) trong tâm lí,tức là tạo ra sự phát triển (theo đúng nghĩa của thuật ngữ này).b) Là hoạt động có thể chi phối toàn bộ đời sống tâm lí của trẻ.Những quy trình tâm lí của trẻ được cải tổ, được tổ chức lại bằng hoạt động này.

12c) Là hoạt động có khả năng chi phối các vận hành khác diễn ra cùng lúc ấyvà tạo ra những nét đặc trưng trong tâm lí của trẻ ở mỗi giai đoạn phát triển.Tóm lại, “vận hành chủ đạo đó là hoạt động mà sự phát triển của nóquy định những biến đổi chủ yếu nhất trong các quy trình tâm lí và trong cácđặc điểm tâm lí của nhân cách đứa trẻ ở giai đoạn phát triển nhất định củanó” (A.N. Lêônchiev).do đó, nếu trong giai đoạn hoặc thời kì phát triển nào đó, vận hànhchủ đạo không được thực hiện tốt thì dù các vận hành khác có thể được tổchức tốt đến mấy cũng không bù đắp được sai sót của giai đoạn ấy và ảnhhưởng cả đến sự phát triển của giai đoạn sau.Câu 4: Điều kiện sinh học ảnh hưởng đối với sự phát triển tâm lícủa trẻ em như thế nào?Gợi ý:- Điều kiện sinh học là gì ?Điều kiện sinh học là cơ sở vật chất, cơ sở di truyền mà trẻ nhận đượctừ cha mẹ mình. Ngoài những yếu tố di truyền ra, điều kiện sinh học cònbao gồm những yếu tố bẩm sinh. Đặc điểm bẩm sinh thường hình thànhtrong quy trình phát triển của bào thai. Cách sống của cha mẹ, cách ăn uống,chế độ nghỉ ngơi, lao động, bệnh tật, những cơn xúc động thần kinh, ảnhhưởng của tia phóng xạ, chất độc hóa học, virút HIV từ cha mẹ v.v đều cóthể ảnh hưởng đến con cái. Tất cả sự dao động của “môi trường cha mẹ” đógây ra ra những sự thay đổi trong chức năng và đôi khi trong cấu trúc giải phẫucủa cơ thể thai nhi.

Như vậy, khi phát sinh đứa trẻ có những đặc điểm di truyền từ cha mẹ,tổ tiên của mình và có những đặc điểm bẩm sinh hình thành trong quy trìnhphát triển của bào thai. Đó là khó khăn sinh học của sự phát triển tâm lí.- Vai trò của khó khăn sinh học đối với sự phát triển tâm lí của trẻNgay từ khi lọt lòngđứa trẻ đã có một hệ thần kinh của con người, cómột não bộ có khả năng trở thành cơ quan vận hành tâm lí cực kì quantrọng và phức tạp chỉ riêng con người mới có. não bộ của con người cùngvới đặc điểm các bộ phận của cơ thể là tiền đề vật chất để một cá thể trởthành một con người.

13Cấu tạo của bộ não người và động vật khác xa hẳn nhéu. não bộngười với hơn 15 tỉ tế bào thần kinh ở vào cấp độ cao nhất trong các độngvật, đã trở thành một cơ quan có khả năng tạo nên những cơ quan chứcnăng. Chính chúng là thực thể vật chất của những năng lực và chức năngchuyên biệt hình thành trong quá trình con người lĩnh hội thế giới sự vật vàhiện tượng những công trình văn hóa do nhân loại sáng tạo ra.Điều kiện sinh học là tiền đề vật chất, là phương tiện để sinh ra vàphát triển tâm lí của trẻ ở mức độ nào là điều vẫn còn được tranh cãi nhiều,phụ thuộc nhiều vào điều kiện sống và giáo dục.Ngày nay, chúng ta thừa nhận rằng tính di truyền có thể bất lợi đối vớisự phát triển năng lực trí tuệ. Bởi vì sự phát triển của quy trình nhận thứcchủ yếu tùy thuộc vào điều kiện học tập và giáo dục của họ.một trong những đặc điểm của các cơ quan chức năng của vỏ não đặcbiệt ở trẻ em khi hệ thần kinh còn mềm dẻo là chúng có khả năng cải tổ lạivà từng thành phần của chúng có khả năng bị thay đổi ngay bởi thành phần khác, nhưngkhi đó hệ thống chức năng ấy vẫn còn như một thể hoàn chỉnh. Nói cáchkhác chúng có thể bù trừ cao vô cùng. Ví dụ người mù thì phát triểnchức năng thính giác và xúc giác, trẻ câm phát triển khẩu hình v.v Dựa

vào đặc điểm này của các cơ quan chức năng của não người ta có khả năng tiếnhành hồi phục chức năng cho những trẻ bị khiếm khuyết một số cơ công tácbù trừ quan chức năng nào đó, càng sớm càng tốt (can thiệp sớm).Câu 5: Giáo dục ảnh hưởng đối với sự phát triển tâm lí của trẻ em nhưthế nào?Gợi ý:- Giáo dục là gì ?Giáo dục là quy trình mà thế hệ cha anh truyền lại kinh nghiệm lịch sửxã hội cho các thế hệ mới nhằm chuẩn bị cho họ bước vào đời sống và laođộng để bảo đảm sự phát triển hơn nữa của xã hội và của cá nhân.Như vậy, theo nghĩa rộng, đề cập đến giáo dục là đề cập đến sự ảnh hưởng tớicon người của toàn xã hội và của thực tiễn xung quanh.Đối với trẻ thơ, giai đoạn đầu tiên của đời người (từ lọt lòng đến 6tuổi) giáo dục nhằm phát triển các chức năng tâm lí, hình thành những cơ sở

14ban đầu của nhân cách con người, chuẩn bị cho những giai đoạn phát triểnsau được thuận lợi.- tác động của giáo dục đến sự phát triển tâm lí của trẻA.N. Lêônchiev khẳng định “Sự phát triển lịch sử xã hội loài ngườikhông thể thiếu sự truyền thụ tích cực cho thế hệ trẻ những thành tựu vănhóa của loài người, không thể thiếu sự giáo dục”.Trẻ em không đứng một mình đối mặt với thế giới xung quanh nó. Đểlĩnh hội được những kinh nghiệm lịch sử xã hội, lúc đầu đứa trẻ có khả năng hoànthành hành động dưới sự chỉ đạo và giúp đỡ của người lớn sau đó thì hoànthành một mình. Giáo dục phải hướng vào “vùng phát triển gần nhất” của trẻlàm sao cho trẻ hôm nay còn phải có sự giúp đỡ của người lớn, ngày mai nóđã tự làm một mình.Việc tính đến trình độ phát triển mà trẻ đạt được như vậy và cùng lúc ấysự định hướng vào vùng gần nhất “ngày mai” của những khả năng là đặc

biệt quan trọng, vì lẽ chúng không những vạch ra mối quan hệ qua lại đúng đắncủa giáo dục và phát triển mà còn xác nhận vai trò chủ đạo của sự tác độngcủa người lớn, của giáo dục.Để quá trình giáo dục đem lại hiệu quả cao thì người ta cần nghiêncứu xác định xem dạy trẻ những cái gì và dạy trẻ như thế nào ở các giaiđoạn khác nhau của tuổi ấu thơ. Nhưng không phải mọi sự giáo dục đều đặn kéotheo sự phát triển. Có nghĩa là nếu sự giáo dục quá xa vời đối với trẻ hoặcquá dễ đối với trẻ thì nó không có công dụng đối với sự phát triển.Giáo dục luôn đi trước sự phát triển. Giáo dục bao giờ cũng tính đếnmọi yếu tố sinh học tương đương yếu tố xã hội ảnh hưởng đến sự hình thànhnhân cách trẻ. Giáo dục có thể giúp trẻ rèn luyện làm thay đổi điều kiện sinhhọc, tạo ra hoàn cảnh tốt, đặc biệt là tổ chức cho trẻ hoạt động để thực hiệnmục đích của giáo dục.Giáo dục còn tác động qua lại rất mật thiết với tất cả những ảnh hưởngxuất phát từ môi trường, nó nắm vai trò chủ đạo trong việc sử dụng các điềukiện xã hội thuận lợi, cũng như trong việc loại trừ hoặc làm suy giảm nhữngảnh hưởng và ảnh hưởng bất lợi bắt nguồn trong một số trường hợp từ môitrường mà trẻ sống. Nhà giáo dục có khả năng tạo ra những điều kiện tốt giúp trẻphát triển thuận lợi, có thể định hướng phát triển tâm lí của trẻ em.

15Chúng ta đánh giá cao vai trò của giáo dục song chúng ta không cho”giáo dục là vạn năng”. Bởi mọi sự ảnh hưởng từ bên ngoài đều đặn phải qua cáibên trong, thông qua điều kiện vật chất, tiền đề làm phát sinh và phát triểntâm lí. Giáo dục luôn tính đến đặc điểm tâm lí, sinh lí của trẻ ở từng giaiđoạn, vào đặc điểm cá biệt của từng trẻ. ý nghĩa của giáo dục còn ở chỗ, nócó thể thay đổi điều kiện bẩm sinh của trẻ, thay đổi ngay yếu tố di truyền khôngcó lợi cho sự phát triển như các dị tật, bằng phương pháp tập luyện đặc biệtvà phát triển những mầm mống năng khiếu đặc biệt của trẻ. Điều này rất cóý nghĩa trong việc giáo dục trẻ khuyết tật và phát triển năng khiếu ở trẻ.

Câu 6: Phân tích quy luật phát triển không đồng đều của trẻ?Gợi ý:- Xét trong tiến trình phát triển của mỗi cá thểSự phát triển không phải là sự tăng lên về lượng một cách đồng đềutheo một con đường thẳng tắp êm ả; trái lại, sự phát triển của mỗi cá thểmang tính không đồng đều. Trong tiến trình đó, có những giai đoạn sự pháttriển được thực hiện với một tốc độ rất nhanh chóng, lại có những giai đoạntốc độ phát triển chậm chạp hơn. Đặc biệt, tuổi càng nhỏ thì sự phát triểncàng nhénh. Đối với trẻ ở lứa tuổi mầm non (từ lọt lòng đến 6 tuổi) thì tốcđộ phát triển nhénh đến mức mà sự thay đổi có thể tính được trong hằngtháng, thậm chí trong hàng tuần. Tốc độ phát triển đó về sau khó tìm thấy ởnhững giai đoạn khác.Trong tiến trình phát triển người ta còn tìm thấy những giai đoạn phátcảm của một vài chức năng tâm lí. Phát hiện ra những thời kì phát cảm đểgiúp nhà giáo dục tìm mọi cách phát triển một chức năng tâm lí nào đó thậtđúng lúc. Nếu để chậm hoặc sớm quá thì sự phát triển sẽ khó thực hiện. Ởtuổi mẫu giáo, xúc cảm thẩm mĩ phát triển khá nhénh, còn sau 10 tuổi thì sốđông không nhạy cảm như thế nữa.- Xét sự phát triển giữa trẻ này với trẻ khácTất cả trẻ em đều trải qua những giai đoạn phát triển giống nhéu theomột trình tự nhất định. Những giai đoạn này có khả năng ví như những bậc thang.Muốn trèo đến bậc trên cùng đứa trẻ phải lần lượt trèo từng bậc một. Tuynhiên mỗi trẻ em trải qua con đường phát triển theo cách riêng của mình vớinhững tốc độ, nhịp độ, khuynh hướng riêng.

16Bên cạnh những khác biệt về nhịp độ và tốc độ phát triển, ở trẻ em cònbộc lộ những khác biệt trong các phẩm chất tâm lí cá nhân như tính cách, nănglực, hứng thú có khả năng nói mỗi đứa trẻ là một con người riêng biệt.- nguyên nhân của sự phát triển không đồng đều đặn giữa những đứa trẻ

Tính không đồng đều đặn trong sự phát triển tâm lí được quy định bởi sựtác động của rất nhiều điều kiện bên trong và khó khăn bên ngoài thườngxuyên dao động gây nên, cùng lúc ấy tạo ra tính mâu thuẫn tất nhiên đối vớisự phát triển tâm lí của bất kì đứa trẻ nào.Sự phát triển tâm lí của trẻ phụ thuộc vào môi trường sống và giáodục. Ngay cả trong cùng một điều kiện sống và giáo dục, cùng trong một giađình thì hai đứa trẻ cũng vẫn không giống nhéu về sự phát triển tâm lí.Sự phát triển tâm lí của trẻ còn phụ thuộc vào mức độ tích cực của trẻtham gia hoạt động. Tính chất của hoạt động quy định tính chất của sự pháttriển tâm lí. hoạt động của mỗi đứa trẻ bị đẩy nhanh bởi những động cơ khácnhéu. Mỗi đứa trẻ có mong muốn riêng của mình và nó tạo ra thế giới bên trongrất riêng không như nhau ở tất cả mọiđứa trẻ.Các biểu hiện tâm lí của con người được hình thành dưới tác động củađiều kiện ngoại cảnh, bao giờ cũng được khúc xạ qua điều kiện cá nhân bêntrong của mỗi người, là kết quả, danh mục của sự ảnh hưởng qua lại ấy. Cáikhó khăn bên trong thì không bao giờ giống nhéu hoàn toàn ở mọi đứa trẻvà ngay cả đối với hai Anh chị em sinh đôi cùng trứng. tuy nhiên hoàn cảnhphát triển vẫn là nguyên nhân chính trong sự phát triển không đồng đều đặn ấy.mặc khác sự phát triển không đồng đều đặn trong vận hành tâm lí của trẻlàm cơ sở tạo ra những nhân cách có một không hai và những nhân cách nàygóp phần tạo nên một xã hội phong phú và thúc đẩy xã hội ngày càng pháttriển. Trong công tác giáo dục chúng ta nhớ đừng nên rập khuôn, áp đặt trẻ, hãytôn trọng cá tính riêng của trẻ.Câu 7: Trình bày cách phân chia các thời kỳ phát triển tâm lý theolứa tuổi?Gợi ý:Căn cứ vào sự thay đổi ngay cơ bản trong điều kiện sống và vận hành củatrẻ, căn cứ vào những thay đổi trong cấu trúc tâm lý và sự trưởng thành cơ17thể của trẻ em, các nhà tâm lý đã chia ra một vài thời kỳ chủ yếu trong sựphát triển tâm lý trẻ em:- Tuổi sơ sinh: mới sinh đến 2 tháng.- Tuổi hài nhi: 2 tháng đến 12 tháng. hoạt động chủ đạo: Giao tiếpxúc cảm trực tiếp với người lớn.- Tuổi nhà trẻ ( ấu nhi): 1 tuổi đến 3 tuổi. vận hành chủ đạo: Hoạtđộng với đồ vật.- Tuổi mẫu giáo: 3 tuổi đến 6 tuổi. vận hành chủ đạo: vui chơi (trungtâm là trò chơi đóng vai theo chủ đề).- Tuổi nhi đồng: 6 tuổi đến 11 tuổi. vận hành chủ đạo: Học tập.- Tuổi thiếu niên: 11 tuổi đến 15 tuổi. hoạt động chủ đạo: Học tập vàgiao lưu nhóm bạn thân.- Tuổi đầu thanh niên: 15 tuổi đến 18 tuổi. hoạt động chủ đạo: Họctập gắn với chiều hướng nghề nghiệp, vận hành xã hội.

18NỘI DUNG 2: ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÝCỦA TRẺ EM TRONG NĂM ĐẦU TIÊN(Từ lọt lòng đến khoảng 15 tháng)A. NHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN SINH VIÊN CẦM NẮM VỮNG1. Đặc điểm sự phát triển tâm lý của trẻ sơ sinh (từ lọt lòng đến 2 tháng tuổi)Vai trò của phản xạ không khó khăn; Tình trạng bất phân: cảm giác,cảm xúc chưa phân định; Sự phát triển các nhu cầu.2. Đặc điểm phát triển tâm lý của trẻ hài nhi (từ 2 đến 15 tháng tuổi)Giao tiếp xúc cảm trực tiếp với người lớn là vận hành chủ đạo của trẻhài nhi; Sự phát triển vận động, vận hành với đồ vật và định hướng vào môitrường xung quanh; Hình thành những tiền đề của sự lĩnh hội ngôn ngữ.B. GỢI Ý TRẢ LỜI MỘT SỐ CÂU HỎICâu 1: Vai trò của phản xạ không khó khăn ở trẻ sơ sinhGợi ý:Đời sống của em bé trong môi trường mới được đảm bảo nhờ cónhững cơ chế di truyền có sẵn: hệ thống thần kinh đã sẵn sàng thích nghi vớiđiều kiện bên ngoài, những hệ thống cơ bản của cơ thể (như hô hấp, tuầnhoàn, tiêu hóa) bắt đầu khởi động. Nhờ đó trong những ngày đầu tiên cácphản xạ tự vệ được thực hiện. Bên cạnh phản xạ tự vệ, còn có phản xạ địnhhướng, tức là những phản ứng của trẻ hướng tới những kích thích mới lạ.Phản xạ hoạch định không phải là bẩm sinh mà nó được nảy sinh trên cơ sởnhững phản xạ tự vệ bẩm sinh, nhờ có những kích thích của thế giới bênngoài và đặc biệt là những ảnh hưởng do người lớn tạo ra. Phản xạ hoạch địnhlà cơ sở ban đầu của vận hành tìm tòi của trẻ. tuy nhiên sự tìm tòi của trẻcòn bị Giảm bởi các giác quan còn quá non nớt.Trong những ngày đầu tiên của cuộc sống trẻ đã được trang bị một sốphản xạ không điều kiện giúp trẻ thích ứng với hoàn cảnh sống mới. Phản

xạ thở, phản xạ mắt, phản xạ bú mút, phản xạ về nhiệt độ, phản xạ nắmv.v đều đặn là những phản xạ bẩm sinh được thực hiện sau khi sinh ra. Nhưvậy so với con vật non thì đứa trẻ yếu ớt hơn rất nhiều, vì mới sinh ra nó

19chưa có sẵn bất kì một hình thái hành vi nào của con người. Điều này tưởnglà điểm yếu, nhưng thực ra đây chính là thế mạnh của đứa trẻ. Mới sinh rađứa trẻ hầu như bất lực, không tự phát triển được nhưng lại có khả năng tiếpnhận kinh nghiệm và hành vi đặc biệt của con người.bộ não của em bé mới phát sinh nặng khoảng 400g (bằng 1/4 não củangười lớn) số lượng tế bào thần kinh lúc lọt lòng đã đầy đủ, nhưng các sợidây thần kinh chưa được miêlin hóa, còn phải nhiễm chất miêlin mới hoạtđộng được. Sự miêlin hóa ấy tiến đến đâu thì giác quan và vận động mớiphát triển đến đấy. Sự thành thục thần kinh (maturation nerveuse) là tiền đềcủa mọi sự phát triển, không có không được.Câu 2: Phân tích tình trạng bất phân ở trẻ sơ sinhGợi ý:Theo Renne N. Spitz (một nhà tâm lí học Mĩ), trẻ sơ sinh trong tìnhtrạng bất phân khi cảm nhận mọi vật. Chẳng hạn vú mẹ, em bé tưởng làthuộc bản thân. Trong tháng đầu trẻ hầu như chưa tiếp nhận rõ ràng kíchthích từ bên ngoài, chỉ có nội cảm và tự cảm, chỉ khi nào kích thích bênngoài quá mạnh mới nhận ra.Ban đầu nội cảm chiếm ưu thế, liên quan tới hoạt động của hệ thầnkinh thực vật, biểu hiện qua cảm xúc, cảm giác mang tính tràn lan khôngphân định. Đối lập là ngoại cảm có phân định thành những cảm giác rõ nét,qua những giác quan ngoại vi. Hết tuần đầu, em bé bắt đầu có những phảnứng phân định. Cho đến tuần thứ 6, em bé có khả năng cảm nhận được một sốkích thích từ môi trường bên ngoài, tuy nhiên khi cảm giác khó chịu tràn

ngập thì có đặt đầu vú vào mồm em bé cũng không cảm nhận được. Trạngthái stress phải được giải tỏa (la khóc cựa mình) rồi mới có khả năngcảm nhận.Đặc biệt trẻ sớm nhận ra mặt người. ở giai đoạn này cảm xúc và cảmgiác còn hỗn hợp, nội cảm lấn át ngoại cảm. Nhưng ở vùng môi miệng vàhọng, là nơi mà một kích thích bên ngoài tạo ngay một phản ứng đặc trưng:tìm bú. Nơi đây tập trung mọi thứ cảm giác: xúc giác, vị giác, khứu giácĐây là cảm giác ở gần, khác với cảm giác từ xa như mắt thấy tai nghe.mặc khác, ngay từ đầu, 3 bộ phận khác cũng đã vận hành: tay, tiềnđình, da. Tất cả những cảm giác kể trên đều đặn chưa phân định rõ ràng, cònmang tính hỗn hợp và dính liền với cảm xúc dễ chịu hay khó chịu.

20Đứng về mặt thống kê phát triển cảm giác vận động, theo Piaget thìkhởi đầu, em bé mới sinh ra chưa thấy, chưa nghe, chưa cảm giác rõ gì ởngoài bản thân. Em bé sống trong thời kì cảm giác vận động: cảm và nhận thếgiới qua cảm giác vận động và vận động càng mở rộng, càng được tổ chức.Đói khát kéo theo phản xạ mút, bú, nuốt, lặp đi lặp lại nhiều lần thànhnhững vận động quen thuộc, rồi từ cảm nhận vận động của mình tiến tớinhận ra sự tồn tại một cái gì đó ngoài mình, không phải mình. Thị giác củatrẻ sau ba tuần đã có được sự hội tụ của hai nhãn cầu, giúp cho cái nhìn cócó khả năng tập trung, đảm bảo sự ổn định nào đó cho những cảm giác thị giác.Hai tháng, trẻ đã có thể nhìn theo một vật chuyển động chậm, một nguồnsáng di động, nhận ra vài đối tượng Dù còn rất sơ khai nhưng hoạt độngcủa thị giác có ý nghĩa to lớn.Câu 3: Phân tích sự phát triển các mong muốn ở trẻ sơ sinhGợi ý:- nhu cầu – yếu tố thúc đẩy sự phát triểnmong muốn tạo nên tính tích cực của con người, thúc đẩy con người hoạtđộng để thỏa mãn. Sự thỏa mãn hay không thỏa mãn nhu cầu đưa đến những

trạng thái tâm lí khác nhéu: dễ chịu hay khó chịu, thoải mái hay căng thẳng,vui vẻ hay ấm ứcTrẻ em có những nhu cầu sinh lí thiết yếu, đầu tiên là mong muốn dinhdưỡng: ăn uống đủ chất để đảm bảo cơ thể phát triển bình thường, khỏemạnh. Nếu không thỏa mãn mong muốn này trẻ sẽ suy dinh dưỡng, sinh bệnhtật. mong muốn về nhiệt độ: phải sống trong môi trường nhiệt độ thích hợp,không quá nóng hay quá lạnh để cơ thể có khả năng chịu được; nhu cầu về khôngkhí trong lành Cùng với những nhu cầu sinh lí trẻ có những mong muốn tâm líxã hội: an toàn về thể chất và về tâm lí, có quan hệ tình cảm xã hội đầy đủ,được hoạt động về tay chân và trí óc, được tự khẳng định bản thân Nếukhông được thoả mãn những mong muốn này trẻ không thể phát triển bìnhthường về tâm lí, không thể hình thành nhân cách.Sự phát triển của trẻ em được đánh giá về hai mặt cơ bản: sự tăngtrưởng về cơ thể và sự phát triển về tâm lí. Cả hai mặt này chỉ đạt được trêncơ sở trẻ được thỏa mãn các mong muốn, được phát triển mong muốn. Để trẻ emphát triển, việc quan tâm đến các mong muốn của trẻ và thỏa mãn nó một cáchhợp lí, tạo khó khăn cho nó phát triển một cách phù hợp là rất rất cần thiết.

21- Vai trò của sự thỏa mãn các nhu cầu sinh họcTrong những ngày tháng đầu tiên của cuộc đời, các nhu cầu sinh họcđược thỏa mãn có ý nghĩa lớn. Trước hết là mong muốn ăn uống. Với trẻ sơsinh, tiếng khóc là “phương tiện” có ý nghĩa nhất giúp trẻ biểu hiện nhu cầucủa bản thân. Người lớn căn cứ vào đây để biết tình trạng của trẻ.Ngoài nhu cầu ăn uống trẻ còn phải được sống trong môi trường nhiệtđộ thích hợp. Sự thỏa mãn mong muốn về sinh học, trước hết là mong muốn dinhdưỡng, phải thông qua người lớn. Điều này không chỉ có ý nghĩa tồn tại vềmặt cơ thể mà quan trọng hơn, nó còn giúp trẻ phát triển về tâm lí.Sự lặp đi lặp lại nhiều lần trong một ngày, từ ngày này sang ngày

khác có tính chu kì của các cảm giác, cảm xúc, của các đối tượng, các tìnhhuống có liên quan đến sự thỏa mãn nhu cầu cơ thể có ý nghĩa lớn: nó tạo raở trẻ những kinh nghiệm đầu tiên. Mới đầu, trẻ chỉ ngừng khóc khi bắt đầubú. Về sau, chỉ cần mẹ bế lên là đã thôi khóc. Đến đây, mức độ đầu tiên củamột cấu trúc về tâm lí đã được hình thành.Sự thỏa mãn các mong muốn sinh học của trẻ em thông qua người lớn cóý nghĩa to lớn đối với sự tồn tại và phát triển của trẻ em. Các nhu cầu sinhhọc và chủ yếu là những nhu cầu này được người mẹ và thân nhân thỏamãn, trong những ngày tháng đầu tiên của trẻ không những giúp trẻ tồn tại vàlớn lên về mặt cơ thể mà còn là điều kiện để trẻ phát triển về mặt tâm lí.- nhu cầu an toànmong muốn an toàn về vật chất và về tâm lí là một mong muốn cơ bản của trẻem. Trẻ em phải được bảo đảm an toàn tuyệt đối về mặt vật chất: thức ănphải vệ sinh, tránh lửa, điện, nước sôi, tránh ngã từ trên cao Không đượcan toàn về vật chất dẫn đến những tổn thương về mặt cơ thể, nguy hiểm vềtính mạng. Người lớn cần hết sức quan tâm để trẻ được an toàn về mặt này.An toàn về mặt tâm lí cũng quan trọng không kém. Trẻ muốn pháttriển bình thường phải cảm thấy được che chở, nâng niu, được sống trongmôi trường quen thuộc đầy tình yêu thương của cha mẹ và người thân. Bấtlực, yếu ớt về mặt sinh học, trẻ hoàn toàn phụ thuộc vào sự chăm sóc củangười khác. Khi bị mất an toàn, đứa trẻ rơi vào tình trạng ấm ức, hẫng hụtvà lo lắng. Đây là nguyên nhân của thường xuyên bất ổn trong quá trình phát triểncủa trẻ, cả về mặt sinh lí lẫn tâm lí.

22Với trẻ sơ sinh, người mẹ là người quan trọng nhất thỏa mãn trẻ mọimong muốn, đem lại cảm giác an toàn cho trẻ. Mẹ là tác nhân quan trọng nhấtgiúp các cảm giác và kinh nghiệm được hình thành. Sự dịu dàng, yêuthương của mẹ, đức tính sẵn sàng vì con vô cùng rất cần thiết đối với trẻ. Để trẻcảm thấy an toàn nên tạo ra và giữ một nếp sinh hoạt ổn định cho trẻ, cho trẻ

được sống trong môi trường đầy đủ tình yêu thương.- mong muốn tiếp nhận các ấn tượng từ thế giới bên ngoàiĐể tồn tại và phát triển, mối quan hệ giữa đứa trẻ với thế giới bên ngoàicần được thiết lập. Đó là một trong số những mong muốn được phát sinh sớm nhấttrong thời kì sơ sinh  mong muốn tiếp nhận các ấn tượng từ thế giới bên ngoài.mong muốn này gắn liền với phản xạ hoạch định. Lúc đầu trẻ chỉ có phảnứng nhìn khi một vật sáng để gần và chỉ có phản ứng khi nghe tiếng động to.Dần dần đứa trẻ đã có khả năng phân biệt được các âm thanh và mùi vị khác nhau.Đặc điểm quan trọng của trẻ sơ sinh là thị giác và thính giác phát triểnnhénh hơn các cử động của thân thể. Ngay trong thời kì mới ra đời, ở trẻ cóthể hình thành những phản xạ có khó khăn để thiết lập mối LH giữa trẻvới môi trường bên ngoài. Nhờ đó việc thu nhận những ấn tượng bên ngoàiđược thuận lợi. Chỉ trong vài tuần lễ đầu khu vực vận hành của thị giác trênvỏ não đã tăng lên 50%.Ngoài sự phát triển của não bộ thì điều quan trọng là do tác độngcủa các kích thích từ thế giới bên ngoài, nếu không có những kích thích đóthì não bộ cũng không thể phát triển được. Các giác quan là những “cửa sổ”mở ra đón nhận những kích thích từ bên ngoài vào. Không có những cảmgiác do các giác quan đưa lại trẻ không thể nhận rõ thế giới. do đó ngườilớn cần chú ý tạo ra và tổ chức các ấn tượng bên ngoài cho trẻ tiếp nhận,như đem đồ vật lại gần trẻ, cúi xuống trò chuyện với trẻ, phát ra các âmthanh nhẹ nhàng cho trẻ nghe v.v để phát triển nhénh các phản xạ địnhhướng của trẻ vào thế giới xung quanh.- mong muốn gắn bó với người khácLọt lòng trẻ em đã có những ứng xử làm cho người lớn, nhất là ngườimẹ phải quan tâm như mút, bám níu, khóc, mỉm cười, muốn được ôm ấp vỗvề, thể hiện một nhu cầu muốn gắn bó với người lớn.Chúng ta có thể đi đến một kết luận rằng: vắng mẹ từ những ngày đầumới ra đời là nỗi bất hạnh to lớn đối với trẻ em. Lúc mới nảy sinh, cái mà trẻ

23nhận ra đầu tiên chính là mẹ mình. Trước khi nhận ra đồ vật xung quanh thìhình ảnh của mẹ đã in vào đầu óc non nớt của bé làm cho nó gắn bó mộtcách hết tự nhiên với hình ảnh ấy. Mặt mẹ, mùi da thịt của mẹ tất cảnhững thứ đó tạo ra cho bé một cảm giác an toàn, dễ chịu, mà đời sống củatrẻ không thể thiếu những điều đó được.Trong mối quan hệ gắn bó mẹ con ở cả hai phía, mẹ và con đều phátra tín hiệu cho nhéu. Tín hiệu của mẹ được biểu hiện ở những cử chỉ, độngtác, nét mặt, giọng nói hướng về đứa con nhằm gợi cho nó phản ứng đáplại. ở đứa con, tuy chưa có lời nói hay cử chỉ hướng về mẹ một cách chủđịnh, nhưng ở trẻ cũng có thể phát ra những tín hiệu khiến cho người xungquanh chú ý đến mình như la khóc, vặn mình, cọ quậy tay chân Nhờ đómà người xung quanh, trước hết là người mẹ, nhận ra và đáp ứng được nhucầu của bé như cho bú, thay tã lót, ôm ấp vỗ về, tạo ra sự gắn bó với trẻ.Thông qua những tín hiệu phát ra từ mẹ và con, nhiều công trìnhnghiên cứu đã tổng kết được 4 kiểu quan hệ gắn bó mẹ con.Tạo được mối quan hệ gắn bó mẹ con ngay từ những ngày đầu trẻ mớira đời là một cách phòng ngừa hấp dẫn nhất, tránh cho trẻ nguy cơ chậm pháttriển và lệch lạc về sinh lí tương đương tâm lí sau này.Ngày lại ngày ở trẻ hình thành nên những phản ứng vận động xúc cảmđặc biệt hướng tới người lớn. Phản ứng này được gọi là “phức cảm hớn hở”.Sự xuất hiện phức cảm hớn hở cũng là kết thúc thời kì sơ sinh để bước sangthời kì mới: tuổi hài nhi.Các nhu cầu của trẻ trên đây còn tiếp tục được đáp ứng ở những giaiđoạn phát triển sau.Câu 4: Giao tiếp xúc cảm trực tiếp với người lớn mang lại những gìcho sự phát triển tâm lí của trẻ hài nhi ?

Gợi ý:Giao tiếp xúc cảm trực tiếp với người lớn là vận hành chủ đạo của trẻhài nhi. đời sống của trẻ hài nhi hoàn toàn phụ thuộc vào người lớn: ngườilớn cho ăn, cho mặc, người lớn tạo ra những ấn tượng bên ngoài cho trẻ thunhận v.v Vì vậy giao tiếp với người lớn là một nhu cầu bức thiết của trẻ. Sởdĩ có nhu cầu đó là do bắt buộc khách quan của cuộc sống trẻ em. Để cho trẻ

24cảm thấy dễ chịu, người lớn phải phục vụ nhu cầu giao tiếp của trẻ, giúp chotrẻ có được tiền đề phát triển nhân cách sau này.Trong phức cảm hớn hở đã thể hiện rõ rệt thái độ xúc cảm tích cựccủa trẻ đối với người lớn. Trẻ rất vui mừng khi được giao tiếp trực tiếp vớingười lớn. Thái độ đó tiếp tục phát triển mạnh suốt trong thời kì hài nhi.Giao tiếp trực tiếp với người lớn có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự pháttriển tâm lí của trẻ. Đặc biệt là về mặt xúc cảm.Vào khoảng tháng thứ 6 đến tháng thứ 8, ở trẻ xuất hiện một hiệntượng mới: lúc có người lạ đến gần trò chuyện với em bé, bé không mỉmcười ngay như trước nữa mà tỏ ra sợ hãi, từ chối không muốn giao tiếp, cóbé cúi mặt xuống, lấy tay che mặt hoặc chui đầu vào chăn hay la khóc ầmlên. Đây là một mốc quan trọng trong quy trình phát triển cảm xúc. Trongnhững ngày đầu ở trẻ chỉ có phản ứng cảm xúc thô sơ khi có một mong muốnnào đó được thỏa mãn hoặc không được thỏa mãn. Dần dần phản ứng ấyđược phân định rõ nét hơn, em bé tỏ ra biết dùng một vài dấu hiệu khácnhéu để bắt buộc điều này, điều khác hoặc tỏ ra khó chịu hay sợ hãi.Hiện tượng sợ hãi đứng trước một người lạ không giống với nỗi sợ hãikhi gặp một kinh nghiệm đau đớn, mà đây là sự so sánh của em bé giữa hìnhảnh của người lạ với hình ảnh quen thuộc của người mẹ đã được ghi lại rõnét. Spitz gọi sự xuất hiện này là mốc tổ chức thứ 2 trong quá trình pháttriển (mốc thứ nhất là mong muốn gắn bó). đồng thời, sự thành thục của hệthần kinh cho phép có những cảm giác rõ rệt hơn, thực hiện được một số

vận động, điều khiển tư thế trong vận động, xuất hiện một bản ngã thô sơ(cũng có khả năng gọi là cái “tôi” tuy còn rất mờ nhạt).Cùng với giao tiếp trực tiếp với người lớn, dần dần ở trẻ xuất hiện nhucầu sờ mó, cầm nắm các đồ vật. Một quan hệ tay ba (trẻ em người lớn đồvật) được hình thành. Sau đó em bé có khả năng chuyển tình cảm với mẹsang đồ vật, gọi đồ vật là quá độ (Object transitionnel).Trong khi hoạt động phối hợp với trẻ, người lớn có khả năng giúp trẻ biếthành động một cách hợp lí với đồ vật. Nhờ hoạt động phối hợp với ngườilớn, ở trẻ nảy sinh khả năng bắt chước hành động của người lớn. có khả năngnày là điều kiện quan trọng để trẻ tiếp thu những điều dạy dỗ của người lớn,mở rộng vốn kinh nghiệm của trẻ. có khả năng bắt chước những hành động

25của người lớn được phát triển mạnh trong suốt thời kì hài nhi, đến 7 – 8tháng đứa trẻ đã biết chăm chú theo dõi các hành động của người lớn và bắtchước những hành động ấy. Nhưng thông thường trẻ không làm lại ngay màphải sau một thời gian nào đó, có khi sau vài giờ. Đến cuối tuổi hài nhi thìsự bắt chước tăng lên rõ rệt, trẻ chải tóc giống mẹ, đọc sách giống bố, laubàn giống chịRõ ràng những hành động của người lớn xung quanh đã tác động rấtlớn đến sự hình thành những phẩm chất tâm lí của trẻ. Việc bắt chước mộtngười lớn nào đó (thường là người nhà) khiến cho thái độ của trẻ đối với sựvật và với người xung quanh luôn luôn lệ thuộc vào thái độ người lớn đó,người đó yêu thích thì trẻ cũng yêu thích. Như vậy là quan hệ của trẻ đối vớihiện thực ngay từ đầu đã là quan hệ xã hội.Trong quy trình giao tiếp, người lớn luôn luôn hướng dẫn, uốn nắnhành vi của trẻ, bằng con đường đó, đứa trẻ dần dần hình thành được nhữngthói quen tốt và học được cách ứng xử đúng đắn.

Tất nhiên trẻ chỉ sẵn sàng giao tiếp với người lớn khi nó cảm thấy antoàn và thoải mái về tình cảm. Rõ ràng trong suốt một thời kì hài nhi nếukhông có sự tiếp xúc với người lớn thì sự phát triển tâm lí của trẻ sẽ khôngthực hiện được. Giao tiếp với người lớn được coi là khó khăn tiên quyết đểtrẻ lớn lên thành người.Câu 5: Đặc điểm và vai trò của sự phát triển vận động và hànhđộng với đồ vật ở trẻ hài nhi.Gợi ý:Sự phát triển vận động, hành động với đồ vật và định hướng vào môitrường xung quanh”Ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bò, chín tháng lò dò biết đi”, có thểcoi là sự đúc kết của nhân dân ta về quy trình phát triển vận động từ thấpđến cao của đứa trẻ trong năm đầu tiên. Cùng với sự vận động ấy, đứa trẻcòn biết sờ mó, cầm nắm các đồ vật xung quanh rồi hành động với chúngnhư ném xuống đất hay gõ vào nhéu tất cả những vận động và hành độngđó (manipulation) là bậc thang đầu tiên để dần dần trẻ có khả năng nắm đượcnhững cách thức hành vi của con người.

26Bò là các vận động đầu tiên của trẻ, khoảng chừng 7 – 8 tháng trẻ bắtđầu bò. Lúc này trẻ cố gắng vươn tới đồ vật đang thu hút nó. Thoạt tiên làtrườn, sau đó là bò lồm cồm cả hai chân hai tay. Trước khi biết đi, trẻ phảitrải qua một thời gian khá dài để học cách đứng dậy trên hai chân có vịn rồikhông cần vịn tay, đi men rồi sau cố chập chững từng bước một.Trong những tháng đầu tiên trẻ khám phá môi trường xung quanhbằng thị giác, thính giác và cả vị giác. Từ tháng thứ ba, trẻ bắt đầu dùng haitay để sờ mó đồ vật. Từ tháng thứ tư, trẻ bắt đầu nắm lấy đồ vật. Từ tháng thứsáu trở đi thì động tác nắm được cải thiện hơn, bàn tay hướng về đồ vật, ngóntay cái đối lập với các ngón tay khác, nhờ đó trẻ đã cầ

m đồ vật bằng các ngóntay. Càng về cuối năm tuổi đầu tiên, động tác nắm càng chính xác hơn.Một khi đứa trẻ có thể cầm nắm đồ vật trong tay thì nó bắt đầu thaotác với đồ vật bằng tay. Những thao tác đầu tiên rất đơn giản như cầm lấyrồi buông ra. Sau đó thao tác trở nên phức tạp hơn, tạo ra những kết quả nhấtđịnh. Những thao tác bằng tay của trẻ đối với đồ vật tiến bộ rất nhanh từ chỗchú ý của trẻ chỉ hướng tới đồ vật đến chỗ biết hướng chú ý tới kết quả. Nhờ đósự hoạch định vào đồ vật và không gian xung quanh rõ ràng hơn.có thể nói rằng định hướng của trẻ vào thế giới xung quanh trước hếtbằng sự vận động và thao tác đối với đồ vật, trên cơ sở đó mà phát triển quátrình tâm lí, rồi sau mới có sự hoạch định bằng các quá trình tâm lí.Trong giai đoạn phát triển đầu thì mắt có khả năng nhìn thấy đồ vật, nhậncác ấn tượng từ đồ vật đó, song chưa thể xác định được khoảng cách vàphương hướng. Ngoài 6 tháng, ta nhận thấy khi đưa tay tiếp cận đồ vật, mắttrẻ đã biết nhìn ra tay và cuối cùng biết được vị trí của đồ vật đó. Khoảngmột năm thì mắt của trẻ mới xác định được vị trí của đồ vật trong khônggian và mới điều khiển, điều chỉnh cử động của tay một cách tương đốichính xác.quá trình cầm nắm và thao tác bằng tay với đồ vật giúp trẻ biết đượccác thuộc tính khác nhéu của chúng như hình dáng, trọng lượng, độ dày, độcứng. Nhờ người lớn hướng dẫn, tổ chức sự vận động và thao tác với đồ vật,đứa trẻ có những biểu tượng đầu tiên về thế giới xung quanh làm xuất hiệnnhững hình thái đầu tiên của vận hành tâm lí giúp trẻ định hướng được vàothế giới và tạo nên những tiền đề để trẻ tiếp nhận những loại kinh nghiệm lịch sửxã hội khác nhau ở những giai đoạn sau này.

27quy trình nhận biết một số đối tượng như là một vật thể khách quantồn tại thường xuyên có những thuộc tính nhất định cũng được Piaget

thống kê, theo ông sự nhận biết ấy được hình thành qua một quy trình kéodài từ sơ sinh đến 18 tháng với 6 giai đoạn:- Hai giai đoạn đầu là phản xạ, rồi một số vận động được lặp lại thànhquen thuộc (chủ yếu ở trẻ sơ sinh và đầu tuổi hài nhi).- Giai đoạn 3: xuất hiện phản ứng quay vòng, một vận động tạo ra mộtkết quả, như lắc một đồ vật tạo ra tiếng kêu rồi lắc lại để tìm nghe tiếng kêuấy, em bé lắc lại đồ vật đó.- Giai đoạn 4: đang tìm một vật gì, thấy vật đó biến mất trẻ có ý tìmnhưng không có hướng tìm.- Giai đoạn 5: đang tìm một vật gì, thấy biến mất, tìm ngay chỗ em béthấy đồ vật biến mất.- Giai đoạn 6: dù có thấy hay không thấy đồ vật khi biến mất, em bévẫn tìm. So với con vượn thì đến đây trẻ đã vượt hơn vượn.Lúc này nhận ra đối tượng là một phức hợp nhiều cảm giác. quá trìnhnày Piaget đã mô tả như việc xây dựng một tòa nhà, hết tầng này đến tầngkhác. Người ta có cảm tưởng như một trình tự có sẵn. Thực ra trong quátrình đó cảm xúc tác động rất lớn, cảm xúc đã quyện vào đó.Câu 6: Phân tích những tiền đề của sự lĩnh hội ngôn ngữ ở trẻ vàvai trò của người lớnGợi ý:nhu cầu giao tiếp với người lớn và sự định hướng vào môi trườngxung quanh ngày càng tăng đã làm phát sinh có khả năng nói ở trẻ. Khi giaotiếp trẻ bắt chước những âm thanh trong lời nói của những người xungquanh. Đứa trẻ thường thích thú chăm chú lắng nghe lời người lớn nói vớimình. Sau 3 tháng, một đứa trẻ bình thường có thể phát ra những âm thanhnhỏ “gừ gừ”. Những âm thanh này trở nên mạnh hơn khi được người lớn cúixuống “trò chuyện”. Trong khi giao tiếp với người lớn đứa trẻ có khả năng bắtchước những âm thanh mà người lớn thường ru nó hay nựng nó.Cuộc “chuyện trò” giữa người lớn với trẻ hài nhi khi nhìn bề ngoàitưởng chừng như vô nghĩa, nhưng thực ra nó đã khêu gợi ở đứa trẻ trạng

28thái cảm xúc tích cực, sự thích thú được giao tiếp với người lớn và bắt đầucó những phản ứng lại với sắc thái tình cảm khác nhau trong lời nói củangười lớn.Càng về cuối năm đứa trẻ lại càng thích giao tiếp với người lớn hơn,thông qua âm bập bẹ của mình. Nếu được người lớn đáp ứng thì đứa trẻthích thú phát ra nhiều âm thanh bập bẹ hơn. Âm bập bẹ này có ý nghĩa vôcùng to lớn đối với sự phát triển ngôn ngữ sau này. Trong tiếng bập bẹ trẻhọc cách dùng môi, lưỡi và hơi thở để chuẩn bị cho việc học nói.Sự thông hiểu lời nói của của người lớn ở trẻ xuất hiện trên cơ sở củasự phối hợp vận hành của tri giác nhìn và nghe. Lúc đầu, trẻ hài nhi nghengôn ngữ như nghe những âm thanh nào đó. Ngữ âm là yếu tố đầu tiênquyết liệt thái độ phản ứng của trẻ cũng tức là quyết liệt sự hiểu ngôn ngữcủa trẻ. Cuối tuổi hài nhi, mối liên hệ giữa tên đối tượng và chính bản thânđối tượng trở nên rõ ràng và đa dạng hơn. Đó là cách thức đầu tiên của sựthông hiểu ngôn ngữ. Lúc này trẻ có khả năng chỉ ra đúng đối tượng mà người lớnhỏi, được người lớn khích lệ đứa trẻ hết sức vui mừng, làm thỏa mãn nhucầu giao tiếp.Vai trò của người lớn đối với có khả năng lĩnh hội ngôn ngữ của trẻ:Người lớn đưa trẻ vào những tình huống giao tiếp, trong đó ngôn ngữđược sử dụng như một phương thuận tiện giao tiếp.Khơi gợi ở trẻ sự thích thú được giao tiếp với người lớn, hứng thú vớilời nói của người lớn.Giúp trẻ hình thành mối liên hệ giữa âm thanh của ngôn ngữ với nghĩacủa từ, từ đó trẻ thông hiểu ngôn ngữ.Khích lệ và làm thỏa mãn nhu cầu giao tiếp của trẻ.

29NỘI DUNG 3: ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÝCỦA TRẺ ẤU NHI(15 tháng đến 36 tháng)A. NHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN HỌC VIÊN CẦN NẮM VỮNG1. Sự phát triển vận hành chủ đạo của trẻ ấu nhihoạt động với đồ vật là hoạt động chủ đạo của trẻ ấu nhi; những loạihoạt động với đồ vật của trẻ ấu nhi: vận hành công cụ, hoạt động thiết lậpcác mối tương quan.2. Sự phát triển tâm lý của trẻ ấu nhiSự phát triển ngôn ngữ: nghe hiểu lời nói, hình thành ngôn ngữ tích cực(nói); Sự phát triển trí tuệ: sự phát triển tri giác và sự hình thành biểu tượngvề các thuộc tính của đồ vật, sự phát triển tư duy, sự phát triển tình cảm.3. Sự xuất hiện tiền đề của sự hình thành nhân cáchSự hình thành cấu tạo tâm lý bên trong, sự xuất hiện của tự ý thức,nguyện vọng độc lập và khủng hoảng của tuổi lên 3.B. GỢI Ý TRẢ LỜI MỘT SỐ CÂU HỎICâu 1: Tại sao nói vận hành với đồ vật là vận hành chủ đạo củatrẻ ấu nhi? những loại hành động với đồ vật của trẻ ấu nhi?Gợi ý:Ngay trong thời kì hài nhi, trẻ em đã thực hiện những vận hành kháphức tạp với các đồ vật. Khi bước vào tuổi ấu nhi, mối quan hệ giữa trẻ vớithế giới đồ vật được thay đổi ngay một cách đáng kể. Đồ vật lúc này đối với trẻ không phảichỉ là cái để nghịch, để chơi mà còn chứa đựng trong đó một chức năng nhấtđịnh và có một phương thức dùng tương ứng.Với sự hướng dẫn của người lớn đứa trẻ hướng vận hành của mình

vào việc nắm cách sử dụng đồ vật. Cứ như vậy nó lĩnh hội được những kinhnghiệm lịch sử xã hội được kết tính vào trong các đồ vật. Vì vậy vận hànhđồ vật của trẻ ngày càng giống với cách dùng của người lớn (như cầm



Các câu hỏi về trẻ em là gì trong tâm lý học


Nếu có bắt kỳ câu hỏi thắc mắt nào vê trẻ em là gì trong tâm lý học hãy cho chúng mình biết nhé, mõi thắt mắt hay góp ý của các bạn sẽ giúp mình cải thiện hơn trong các bài sau nhé

Bài viết liên quan

Quá trình liền vết thương diễn ra thế nào?
Tiểu Thương Là Gì? Tầm ảnh Hưởng Của Tiểu Thương đến Nền Kinh Tế
Thương lục có độc, đừng nhầm lẫn với Nhân sâm – YouMed

Chuyên mục: Hỏi Đáp

Bài viết trước « Lá Bồ Đề Tâm Phật: Có thực sự linh nghiệm như lời đồn?
Bài viết sau Chiều cao cột áp hút của máy bơm nước là gì ? – Bơm màng khí nén ARO »

Reader Interactions

Trả lời Hủy

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Sidebar chính

Sự thật về yêu quái khiến Tôn Ngộ Không “bó tay”, Phật Tổ “dè chừng”

12 tác dụng của tinh trùng cho sức khỏe, làn da và mái tóc – MarryBaby

Cùng học tiếng LaTinh với uTalk

13 sự thật về tinh dịch và tinh trùng: Thành phần, khối lượng

Hồ Tinh Bột Là Gì – Hồ Tinh Bột Gồm Những Gì

Kinh nghiệm dùng dầu dưỡng tóc hiệu quả và top 14 sản phẩm tốt

Tinh dầu hồi: Công dụng tuyệt vời đối với sức khỏe và đời sống

Recent Posts

  • Quá trình liền vết thương diễn ra thế nào?
  • Tiểu Thương Là Gì? Tầm ảnh Hưởng Của Tiểu Thương đến Nền Kinh Tế
  • Thương lục có độc, đừng nhầm lẫn với Nhân sâm – YouMed
  • Đặt câu với từ yêu nước thương nòi
  • Khi con tim bị tổn thương

Recent Comments

Không có bình luận nào để hiển thị.

Bản quyền © 2023 thuộc về HLink.Vn * Kênh Thông Tin Tổng Hợp Chính Thống